Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Bình luận văn nghệ   /   “Thơ nhặt dọc đường” hay là gom nhặt mà yêu (Đọc tập thơ Thơ nhặt dọc đường của nhà thơ Huy Trụ NXB Thanh Hóa - 2020) - LÊ XUÂN ĐỒNG
“Thơ nhặt dọc đường” hay là gom nhặt mà yêu (Đọc tập thơ Thơ nhặt dọc đường của nhà thơ Huy Trụ NXB Thanh Hóa - 2020) - LÊ XUÂN ĐỒNG

Cũng giống như chín lần trước, lần thứ mười này anh vẫn đặt tên cho đứa con tinh thần của anh một cách giản dị, khiêm nhường và tường minh: Thơ nhặt dọc đường.
Dọc đường đời: Nay đã ở cái tuổi nếm đủ vị đời: chua, cay, đắng, ngọt... để chưng cất thành vị thơ. Dọc đường theo dặm dài đất nước: Từ Vĩnh Lộc quê cha, đến Trường Sa, Huế, Hà Nội, Hải Phòng, rồi Hạ Long, Yên Tử… với trước đó có hơn mười năm nhịp bước quân hành… cũng là đã qua nhiều miền quê rất thơ và có nhiều trầm tích. Cứ theo chiều dọc đó anh “nhặt” lấy những cảnh thơ, ý thơ rồi luyện thành những tứ thơ để hôm nay có một tình thơ mênh mang, đằm thắm, sâu lắng, diết da… vừa như là trải lòng ra để ôm lấy đất nước, quê hương; tri ân mẹ, yêu thương em; gắn kết với cuộc đời… lại vừa như là nói những điều anh chiêm nghiệm, anh nhận ra trên dọc đường anh đã từng qua: 
Chẳng cần ghế thấp, ghế cao
Khi nằm xuống cỏ, ghế nào cũng xanh...

Sông đau, cuộn thác, dâng ghềnh
Người đau, con mắt coi khinh cả trời…
Những câu thơ đề từ đó, ngay từ đầu đã đem đến cho tôi một sự ám ảnh để rồi khi đọc hết 48 bài thơ tôi nhận ra rằng: Cuộc đời này, cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất thơ nhưng không phải ai cũng “nhặt” được; phong phú những vỉa quặng thơ nhưng không phải ai cũng tinh luyện được thành thơ. Dọc đường đời đó anh như một con ong âm thầm, lặng lẽ hút mật ở trăm hoa để tinh luyện thành mật ngọt dâng đời.
Từ bài thơ Thơ nhặt dọc đường (Bài thứ 2): Mắt em thả biển vào trong/ Để con sóng đánh nát lòng anh ra/ Trời sinh nắng, đất sinh hoa/ Ai sinh dan díu cho ta với mình…/ Con thuyền trôi giữa lênh đênh/ Con người mắc giữa lưới tình bể dâu/ So gì ghế thấp ghế cao/ Khi nằm xuống cỏ ghế nào cũng xanh/ Bạc tiền có thể đua tranh/ Nghĩa nhân đừng để ai giành bán mua…/ Yêu phải thật, ghét phải đùa/ Ớt cay thành mật, khế chua thành đường/ Cuộc đời như khói, như sương/ Khói cay mắt để mùi hương mãi còn/ Rượu nồng dẫu một chén suông/ Yêu nhau con mắt dẫn đường tìm nhau… đến tên của cả tập thơ là một sự giao thoa đầy ẩn ý. Nó giống như trong bài “Hạt muối” mà anh đã viết: Tôi như hạt muối của làng/ Kết từ ô nại chang chang nắng trời. Cái cụ thể soi trong cái khái quát, và cái khái quát thấy bóng dáng của mình ẩn trong những cái cụ thể. Trong vị mặn của muối có vị nước biển khơi và nắng trời lắng kết. Mỗi cặp lục bát của bài thơ là một mệnh đề. Cả tập thơ là những vấn đề nhân sinh và nhân văn mà từng câu thơ này đã vừa dạo đầu vừa lắng kết.
Sự sắp xếp thứ tự các bài trong tập thơ cũng là một dụng ý nghệ thuật. Mở trang thơ ra, đầu tiên là bài lục bát “Sông Mã xanh”, khép tập sách lại, cuối cùng là một bản trường ca “Bài thơ huyết mạch Hàm Rồng”.  Hình như dẫu có đi đến đâu thì Thanh Hóa quê hương vẫn là chốn đi về, vẫn là nơi neo chặt hồn anh. 15/48 bài anh viết trực tiếp có tên đất, tên người xứ Thanh đã nói lên nỗi niềm đau đáu với quê. 
Anh nhìn dòng “Sông Mã xanh” mà như thấy đó là số phận, tính cách con người nơi đây: Chiều nay sông Mã rất xanh/ Con sông vốn rất hiền lành như ai…/ Bể dâu mấy thuở lở bồi/ Đời sông chẳng khác đời người lênh đênh/ Sông đau, cuộn thác dâng ghềnh/ Người đau con mắt coi khinh cả trời/ “Chở thuyền, lật thuyền như chơi...”/ Câu ca muôn thuở truyền đời cho sông/ Phù sa gửi lại nuôi đồng/ Sông đi thanh thản như không có mình/ “Huầy dô”, vượt cạn chênh vênh/ Chén vui thiếu bạn, buồn tênh sự đời. Về với Vĩnh Lộc, quê cha, ngày đón nhận Bằng công nhận Nông thôn mới, anh nghe lòng mình vừa chứa chan phấn khởi vừa xen với bồi hồi, xao xuyến: Một người Vĩnh Lộc trong tôi/ Nhắc tôi luôn nhớ là người xa quê/ Xa quê phải nhớ tìm về/ Núm rau đã hóa lời thề đất đai…/ Tôi về Vĩnh Lộc hôm nay/ Đường Nông thôn mới rộng dài, tôi đi/ Nén nhang đỏ mắt… cha về/ Trong tôi Vĩnh Lộc bộn bề tơ giăng... (Vĩnh Lộc trong tôi). Khi Thành phố Thanh Hóa - Nơi anh và gia đình đang sống - tròn 200 tuổi, anh có cảm xúc “Thành phố và em” là hai gắn kết máu thịt, gần gũi, thiêng liêng trong anh: Mỗi ngày có một bình minh/ Nắng mưa lắng đọng thơm lành nhụy hoa/ Chân trời thành phố quê ta/ Cánh chim Hạc vút bay qua núi Rồng... Đứng trước một huyền thoại về Hàm Rồng, từ Huyền tích đất thiêng,  Huyền tích cây cầu với Những trận đánh giữ cầu, đến Lòng dân trong bom đạn và Đội cầu quyết tử, anh đã viết nên một bản Trường ca 5 chương Bài thơ huyết mạch Hàm Rồng, để rồi qua đó anh nhắn gửi: Lòng dân đã biết chung tay/ Thì sông thành biển, thì cây thành rừng…/ Mai sau nhớ lấy một thời/ Hàm Rồng - huyết mạch máu tươi - con đường...
Có lẽ phải có một bài viết riêng, đồ sộ về quê hương Thanh Hóa trong thơ Huy Trụ, nếu không thì cũng là Thanh Hóa với Huy Trụ qua “Thơ nhặt dọc đường”  vì nỗi niềm với quê trong thơ anh đầy trăn trở, diết da: Bàn chân đi khắp thị thành/ Vẫn mang hạt bụi ân tình - Ngõ quê (Ngõ quê); Dòng đời cứ lững lờ trôi/ Đâu mặt nước? đâu mặt người xứ Thanh...? (Sông Mã xanh); Ai gọi tên mình? Đẹp quá xứ Thanh ơi...! (Mùa xuân sẽ về).
Ba bài thơ riêng về mẹ, rất ngọt ngào mà cũng rất đỗi rưng rưng: Mẹ như giọt nắng cuối ngày/ Con nâng niu cả vòng tay giữ gìn; Mẹ như giọt nắng của trời/ Để con ngửa mặt suốt đời trông theo; … Mẹ như chiếc lá đầu cành/ Bao nhiêu gió dập, vẫn lành che con. Bốn bài thơ về em, rất duyên, tinh tế, đằm thắm, nhẹ nhàng: Một điều nói mấy ai tin/ Người dưng đói mấy được nhìn… cũng no; Em đừng bỏ chết câu thơ/ Bỏ chua trái cấm, bỏ ngơ ngẩn lòng/ Cởi tình ra đếm ra đong/ Đâu lời chân thật, đâu vòng trăng hoa; nhiều lúc rất phiêu bồng, lãng tử: Rượu nồng anh uống, em say/ Kéo trời cao xuống ngang mày mà xuân; “Chết lâm sàng” trước một nét mi cong… nhưng cũng rất nhiều lúc ân tình sâu lắng lạ: Bao nhiêu muối, biển hòa tan/ Bao sương gió, lặn trong bàn tay em/ Bao chua chát, mấy ưu phiền/ Em gom, buộc sợi lạt mềm mảnh mai. Năm bài thơ nói về các mùa trong năm, mùa nào cũng có nét đẹp riêng: Thu lại đến. Một trời vàng bông cúc/ Một áng mây bay. Thao thức cả chiều và mùa nào cũng chứa chan tình đời, tình người, mùa nào cảnh và người cũng quyện lấy nhau vồ vập, thân tình: Vàng son vứt bỏ một thời/ Cỏ non trải chiếu, ta ngồi đón xuân.
Rất nhiều, phong phú bao điều đã được thăng hoa từ sự chiu chắt của anh. Từ buổi Cuối ngày hôm ấy anh tuyên bố: Đa mang nào phải đa tình/ Trót yêu đào huyệt chôn mình, mà yêu... đến Một chiều hôm nay anh day dứt: Rõ ràng anh đó, em đây/ Mà sao chén rượu vẫn đầy rưng rưng.../ Chỉ cây nhang nói bập bùng/ Đỏ như mắt mẹ ngóng trông anh về... Từ cái điều Nghịch lý: Lời chưa nói, mới là lời đáng sợ/ Việc chưa làm, mới là việc đáng lo/ Tình chưa đến, mới là tình đáng nhớ/ Hoa chưa nhìn mới thật là hoa đến những đêm Thức trong mơ: Biết nhau đã nửa con đường/ Cầm tay một đóa vô thường tìm nhau/ Thức trong mơ... để nguyện cầu/ Đời như men rượu bắt đầu từ: Em... Rồi một tiếng lời “Mô Phật”: Mỗi lần “Mô Phật” trong ta/ Thấy lòng thanh thản, vỡ òa niềm vui/ Bớt toan tính… hiểu lẽ đời.../ Con người thương lấy con người nhiều hơn!; một lời Thưa Thầy: Chao ôi ngày ấy… đã xa/ Dáng thầy cô, ngỡ mới là… hôm qua/ Vững tay chèo lái con đò…/ Tôi thèm được gọi thật to: Thưa Thầy. Bầu rượu thiên nhiên cho anh say để có nhiều thi tứ rất hay, nhiều câu thơ rất ngọt: Trước non tơ chẳng thấy già/ Trước trăng mười sáu lá đa cũng tròn nhưng anh vẫn không quên những gì đang xảy ra: Mai này cháu nhớ đã sinh/ Giữa ngày đất nước quê mình gian lao/ COVID-19 tràn vào/ Chở che cho cháu biết bao nhiêu người…
Bao nhiêu sự là bấy nhiêu tình. Dọc đường thơ mới thấy anh luôn đau đáu chuyện đời, chuyện người, luôn khát khao giao cảm, giao hòa.
Tập thơ có 48 bài. Anh dành cho thể thơ Lục bát 33 bài. Sở trường đã tạo nên những bài thơ có âm điệu gần gũi, thân quen, truyền thống nhưng mà cũng rất mới mẻ, tinh khôi, sáng tạo: Sau bao chìm lấp nổi nênh/ Sóng xô bạc mặt, thác vênh lòng thuyền; Dửng dưng không một dòng thư/ Lanh tanh như thể đã từ mặt nhau/ Tội tình nào có gì đâu/ Đến bàn tay chẳng nắm lâu một lần/ Nói gì đến chuyện xa xăm/ Có chăng cũng chỉ vụng thầm trong mơ/ Tại trời bắt phải làm thơ/ Bắt yêu cả mối tình hờ trong em. Bình vẫn là bình cũ nhưng rượu đã có hương vị mới nhiều rồi. Anh cũng đã tạo nên một Lục bát biến thể thành công, có ấn tượng:  
Lá thu
        xanh biếc
                mùa thu
Mẹ tươi sắc lá
        hát
            ru
                lá cành
Bảy mươi
        mùa lá
             thu xanh
Nước non
        giờ đã
             vươn mình 
                   bay cao.
                    (Lá thu)
“Thơ nhặt dọc đường” vẫn thủy chung với thể thơ Lục bát. Một thể thơ đã làm nên giọng điệu thơ Huy Trụ, để anh cùng với Nguyễn Duy, Lê Đình Cánh… trở thành những nhà thơ lục bát nổi tiếng của xứ Thanh.
Với anh chỉ là Thơ nhặt dọc đường, nhưng với tôi và nhiều bạn đọc điều đáng trân quý là qua những vần thơ đó anh đã “Gom nhặt mà yêu”(*) bằng một tình yêu dung dị mà đằm thắm, mộc mạc mà sâu sắc, giản dị mà lan tỏa, ám ảnh.
                              

 L.X.Đ


(*) Tên tập thơ thứ 6 của nhà thơ Huy Trụ.


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 66
 Hôm nay: 893
 Tổng số truy cập: 13468064
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa