Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Bình luận văn nghệ   /   Thơ Lê Gái - Nhóm kỷ niệm hong niềm mộng ảo - Vương Trọng
Thơ Lê Gái - Nhóm kỷ niệm hong niềm mộng ảo - Vương Trọng

Tôi biết chị Lê Gái từ trang facebook. Hình ảnh một người phụ nữ vừa vặn trong bộ quân phục mới tinh, màu xanh, với nụ cười không có tuổi là ấn tượng để lại. Có người nói chị từng là bộ đội thời đánh Mỹ, tôi bán tín bán nghi vì nhìn ảnh thấy chị quá trẻ. Trang thơ trên facebook của chị phần nhiều là thơ Đường luật thất ngôn bát cú, ý tứ phóng túng, niêm luật nghiêm ngắn và câu chữ khá tự nhiên… Đó là những điều tôi biết về chị qua mạng.
Cuối tháng 9 vừa rồi tôi gặp chị ở Sầm Sơn trong trại viết của Hội Văn nghệ Thanh Hóa. Chị không mang quân phục nhưng màu áo thường phục có màu xanh gần như áo lính. Qua trò chuyện, tôi mới biết Lê Gái là bút danh, tên trong chứng minh thư của chị là Lê Hải Chinh, sinh năm 1955, tại Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Lạ nhỉ, phần lớn các cây bút, nhất là cây bút nữ, thường đổi tên khai sinh có dáng dấp quê mùa để lấy bút danh hiện đại, còn ở đây, chị Lê Gái lại làm điều ngược lại. Con người này chắc quyết đoán và bản lĩnh lắm đây! Tôi nghĩ thế.
Năm 1971, mười sáu tuổi, chị nhập ngũ, vào Trường Sơn lái xe vận tải, không biết bao nhiêu lần đã chở hàng, đưa quân vào Nam, ra Bắc. Bom đạn thời đó ở Trường Sơn mục tiêu chính là cầu đường và những đoàn xe vận tải. Chị bảo mình là người may mắn, lái xe ba năm, thay năm chiếc Zin ba cầu, mà không bị cháy xe lần nào, trong khi nhiều đồng đội, xe cháy, người hy sinh, người mang thương tật suốt đời! Sau khi nghe qua “trích ngang lý lịch” của chị, tôi nhìn chị bằng con mắt nể phục, nên khi chị có ý nhờ tôi biên tập và viết lời giới thiệu cho tập thơ sắp xuất bản tôi vui vẻ nhận lời.
“Nhóm kỷ niệm hong niềm mộng ảo” là một câu thơ của chị trong bài “Ký ức Trường Sơn” tôi mượn làm tiêu đề cho bài viết của mình. Tôi hiểu chữ “nhóm” ở đây không chỉ mang nghĩa “gom lại”, mà nghĩa quan trọng hơn là “đốt lên” như người ta nhóm bếp, có như thế mới có năng lượng sưởi ấm tương lai, kể cả “niềm mộng ảo”. Mặc dù cuộc chiến đã lùi xa non nửa thế kỷ, với chị Lê Gái, ký ức Trường Sơn thường trực trong lòng như than ủ, hễ có chút “gió nguyên cớ” là bùng lên thành ngọn lửa, ngọn lửa ký ức trần trụi, chân thật và có khi cũng rất nên thơ:
Đường Trường Sơn dốc trơn chống gậy
Những cung ngầm tọa độ đứng trong bom
Con vắt bò lên ống cóng, bi đông
Viên thuốc sốt đắng xuyên mùa mưa đổ
Đường Hai Mươi đèn gầm rất nhỏ
Ôm vô lăng vượt cái chết đang rình.
            (Ngày xưa)
Một nhà văn nước ngoài từng sáng tác tiểu thuyết nổi tiếng “Cuộc chiến tranh không có gương mặt phụ nữ” với ý nghĩa đối lập giữa khốc liệt, dã man, hủy diệt với dịu dàng, nhân ái, sinh sôi. Ở nước ta, trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, có hàng vạn phụ nữ ra mặt trận chiến đấu và phục vụ chiến đấu, chị Lê Gái làm nhiệm vụ lái xe vận tải. Nhà thơ Phạm Tiến Duật từng viết về con gái lái xe ở Trường Sơn, và rất tâm đắc với cái ý “buồng lái trở thành buồng con gái”. Cũng như thế hệ các nhà thơ chống Mỹ, thơ viết khi cuộc chiến đang diễn ra, với nhiệm vụ cổ vũ tinh thần người lính nên Phạm Tiến Duật ít khi nói hết gian khổ, hy sinh và chuyện tiêu cực. Với ký ức, thơ chị Lê Gái thật cụ thể, chi tiết chuyện sinh hoạt hàng ngày cũng như ý nghĩ thật của nữ “lính xế”: Những nắm cơm bẻ miếng cầm tay/ Nhai nuốt vội rồi ra bờ suối lạ (Tháng Bảy). Hoặc: Con gái lái xe tính hay dỗi, hay hờn/ Nhưng không quên đường kim mối chỉ/ Nhốt giấc ngủ trên ca bin khóc thầm nhớ mẹ/ Cũng có khi muốn bỏ ngũ quay về (Đường xưa). Hay: Viên thuốc đắng cố dằn lòng mà nuốt/ Nuốt cả nghẹn ngào nỗi nhớ quê hương (Em là lính xế). Ý nghĩ tiêu cực nếu có thì chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc thôi: Đêm ngủ giữa rừng giấc mơ treo hai đầu Nam - Bắc/ Nửa làm nũng mẹ, nửa leo dốc đèo/ Khóc chưa xong lại sằng sặc cười reo/ Con gái lái xe chúng em là thế đó! (Đường xưa).
Đọc khổ thơ này, tôi thích nhất “giấc mơ treo hai đầu Nam - Bắc”. Sao lại “treo”? là vì ngủ võng! Lính Trường Sơn nói chung toàn ngủ võng, lính lái xe có khi ngủ trong buồng lái, nhưng phần lớn ngủ võng, buộc vào hai cây rừng hay hai cột nào đó trong căn hầm. Sự thật cánh võng ấy căng theo hứơng nào là do hai cây buộc quyết định, nhưng trong ý nghĩ của người chiến sĩ lái xe vì công cuộc giải phóng miền Nam thì hướng cánh võng khi nằm ngủ phải là Nam - Bắc, Bắc - Nam. Giấc mơ ấy đưa người lính nữ lái xe khi trở về quê hương “làm nũng mẹ”, khi gặp công việc hàng ngày của mình là “leo dốc đèo”.
Vẫn tiếp ý hồn nhiên của cô gái lái xe, nhưng nếu không phải người trong cuộc, người trực tiếp lái xe thì khó mô tả cụ thể được như thế này:
Mỗi cung đường lái xe qua
Đèn gầm soi đủ mình ta với đèn
Ngửa người khi cố bò lên
Cúi đầu xuống dốc sang bên kia ngầm
Võng treo cả tiếng khóc thầm
Khi cười chật cả căn hầm chữ A.
            (Trường Sơn ơi)
Về tình cảm gia đình, Lê Gái nhớ thương nhất là người mẹ của mình. Nhà nghèo, lại đông con, mười chị em tất cả, tám người lao vào cuộc chiến, sáu bộ đội, hai thanh niên xung phong, chiến trường nào cũng có con của mẹ. Nghe chị kể, tôi nhớ lại mình từng làm thơ về một người mẹ như thế: “Con mẹ, mẹ gửi đi mỗi đứa một vùng/ Đất nước chẳng có nơi nào xa trong điều mẹ nghĩ/ Sáng gửi lời đi đến một vùng sóng bể/ Chiều nhận lá thư đậm nhạt gió sương rừng”. Với chị Lê Gái, lời mẹ cũng theo đến chiến trường:
Khói đen co hẹp khoảng trời
Hầm sâu ấp ủ những lời ầu ơ
            (Nhớ mẹ)
Thế nhưng khi tan cuộc chiến, năm 1975, chị trở lại quê nhà thì không còn mẹ nữa:
Thương con mà chẳng kịp chờ
Con về đếm bước bơ vơ đi tìm
Nằm trong lòng đất im lìm
Cỏ xanh ôm ấp một miền cháo rau.
            (Nhớ mẹ)
Đọc câu thơ cuối: “cỏ xanh ôm ấp một miền cháo rau”, lòng bạn đọc rưng rưng cảm thương.
 Rồi em trai sát chị, em Thành nhập ngũ, hành quân vào Nam. Chị nhớ lại trước ngày em đi:
Chia tay em bạn học đến chơi
Lấm lét nhìn nhau lời yêu chưa dám ngỏ
Lưu luyến tiễn đưa thẹn thùng ngoài ngõ
Tay vội vàng trao 
nhận chiếc khăn thêu
Mẹ quay về không dám nhìn theo
Em ra đi buổi thu chiều nghiêng ngả.
            (Em trai à)
Ngờ đâu tiễn biệt trở thành vĩnh biệt: Em chị đã hy sinh ở mặt trận phía Nam như lời quen thuộc trên trang báo tử thời đó:
Chị đi tìm kiếm gia tài
Chiếc ba lô rách với vài lá thư
Chữ xiêu chữ vẹo thế ư
Lời em viết lại vẫn từ năm xưa
Mưa rào cứ đổ giậu thưa
Cửa nhà chị mở em chưa thấy về…
            (Chờ em)
Và em chị mãi mãi không về!
Gia đình nằm giữa quê hương nên tình chị cũng không tách rời. Chị viết về xứ Thanh với nhịp cầu Hàm Rồng và câu hò sông Mã, viết về Sầm Sơn với gió, sóng và hòn Trống Mái chả biết là biểu tượng hay bi kịch của tình yêu; viết về Lam Kinh nơi khởi thủy nhà Lê hùng mạnh:
Đi trên mảnh đất quê nhà
Lưỡi gươm lịch sử mở ra thái bình
Hàng cây, tấc đất Lam Kinh
Dấu xưa cung điện ẩn mình lá xanh
 Hồ Gươm soi bóng kinh thành
Sao ta nghe tiếng dân lành...
Vua đâu?
            (Lam Kinh)
Phần lớn bài thơ trong “Nghiêng chiều” là thơ tình. Phải khẳng định đây là thế mạnh của tác giả. Các trạng thái tình yêu như thấp thỏm đợi chờ, cô đơn thất vọng, hạnh phúc sum vầy hay nghi ngờ trách móc… đều có đủ:
Mây xám thế đủ rồi, chớ xám thêm
Thu rụng hết đâu còn mà rơi nữa
Lòng ước vọng ra vào khép mở
Cánh cửa tình không nhốt được mùa đông…
            (Lại một mùa đông)
Có lúc hoang mang em bỏ lạc chính mình
Nơi ngã ba dỗi hờn vô cớ
Nơi rừng hoang con thác ào ạt đổ
Chiếc lá buồn trôi dạt bến bơ vơ.
            (Dỗi hờn vô cớ)
Với chủ đề này, có khi thơ chị dịu dàng, dân dã:
Sao đành yên lặng thế anh
Vườn em lá vẫn còn xanh mượt mà
Sáng mai nụ nở thành hoa
Giọt sương mát những lời ca đêm dài.
            (Thả chữ vu vơ)
Có khi uẩn khúc đầy thân phận:
Hồng nhan nhạt gió phai sương 
Bóng chiều em mới tập thương lấy mình
Lênh đênh chèo chiếc thuyền tình
Mưa phùn gió bấc bập bềnh ngả nghiêng.
            (Khúc ru mình)
Và điều đáng mừng là có nhiều câu hay:
Gió mang mây ấp hoàng hôn khó thở 
Nắng cuối ngày cố mãi chẳng vàng thêm
Đừng lạc vào lối mộng giấc đêm
Tưởng gặp ngôi sao lại là đom đóm
Lập lòe bay sẽ rơi vào hoang tưởng
Con đường về đi mãi chửa bình minh
Chuyến đò chiều đừng lạc bến lênh đênh
Làn sóng cũ vẫn ôm bên mạn cũ
Con nước trôi xuôi đám lục bình lở dở
Đến cuối dòng vẫn chưa hết lênh đênh…
            (Nhắn chiều)
Như:
Khi nắng chiều nghiêng một góc buồn thu
Mây dồn lại đắp đêm về đông lạnh
Em hờn giận câu vần cô quạnh 
Xé em đau tan tác mảnh nhân tình.
            (Nghiêng chiều)
Hay:
Cơm chay nhạt tiếng chuông chùa
Đêm rằm trăng đợi bỏ bùa trang thơ
Thắp hương khấn bỏ ngu ngơ
Bụi trần khó rũ lửng lơ nâu sòng.
            (Thu ơi)
Hoặc:
Nắng ơi 
vàng vọt khung chiều
Cánh cò bạc trắng 
vẫy điều xa xăm.
        (Xuân buồn)
Với tập thơ có nhiều câu hay, việc chọn câu hay có khi lại khó, như Trần Mạnh Hảo từng viết: “Tháng Tư phây phây như một trái xoài/ Anh trèo cây bao lần rồi tụt xuống/ Quả bốn bề không hái được chỉ vì… sai”!
Để chọn một bài thơ tình điển hình trong tập này không dễ, có thể mỗi người thích một bài khác nhau, riêng tôi chọn:
Nỗi nhớ  
Ai đo được giùm em
Khoảng cách giữa anh và nỗi nhớ
Khi màn đêm sương phủ 
tiếng côn trùng xé rách mảnh cô đơn
Hương hoa vườn thả vào gió dỗi hờn 
câu thơ đè ngực em nghèn nghẹt chữ
Người có xa lắm đâu mà tưởng biền biệt xứ
Nhìn thấy nhau 
 không có làn hơi thở
em đi vào tưởng tượng bước hoang vu
Bắt đền giấc mộng du
em được trả bằng hai hàng nước mặn
chảy xót câu thơ loạng choạng tiếng gà khuya
Ơi con sóng bạc đầu ở phía đợi chờ kia
Vỗ sục sôi lớp triều lên xuống
Rót ngụm lỡ làng một mình em uống
Hết vạt nắng chiều khao khát vẫn chưa xong!
Vì sao ư? Bởi tôi nghĩ hình như nó diễn tả đúng tâm trạng của chị trong nhiều khoảnh khắc, không biết tôi có chủ quan không?   
Về hình thức nghệ thuật, với “Nghiêng chiều”, Lê Gái sử dụng các thể thơ lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn, thất ngôn biến thể và thơ tự do. Ở thể thơ nào vần điệu cũng chuẩn, không câu nào trúc trắc, đặc biệt là thơ lục bát. Nhân đây chúng ta cùng đi sâu vào thơ lục bát. Với loại thơ lục bát chỉ gieo vần vào chữ thứ sáu và chữ thứ tám, không kể loại lục bát gieo vần vào chữ thứ tư (theo kiểu “Con cò mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”), thì một câu lục bát chuẩn bao giờ chữ thứ 2, 6, 8 phải thanh bằng, chữ thứ 4 phải thanh trắc. Trong Truyện Kiều, 1627 câu bát đều chuẩn. Còn 1627 câu lục thì có 26 câu phá cách, tức là chữ thứ 2 không phải thanh bằng hoặc chữ thứ 4 không phải thanh trắc, chỉ chiếm chưa đầy 1,5%, nhưng khi đó câu lục không ngắt nhịp 2/2/2 quen thuộc, mà ngắt nhịp 3/3 (ví như “Người quốc sắc/ kẻ thiên tài”). Trong tập thơ này, tất cả các câu lục cũng như câu bát đều chuẩn, nghĩa là không tìm được một chữ thứ 4 nào thanh bằng, hay một chữ thứ 2 nào thanh trắc (còn chữ thứ 6, 8 thanh bằng thì hiển nhiên rồi). Đó là lý do không một câu lục hay câu bát nào trúc trắc, ngang ngang. Một điều nữa chúng ta cần lưu ý: Truyện Kiều là tác phẩm sử dụng nhiều tiểu đối nhất so với các tác phẩm thơ lục bát. Riêng tiểu đối 4/4, tức là ngắt câu bát thành hai nửa đối xứng (theo kiểu “Bốn phương phẳng lặng/ hai kinh vững vàng”) có đến khoảng 290 câu, tức là chiếm hơn một phần sáu (1/6) số câu bát trong truyện. Không biết có phải học cụ Nguyễn Du hay không, mà trong tập thơ này, Lê Gái sử dụng khá nhiều tiểu đối 4/4, tạo cho bạn đọc cảm giác cân xứng mang tính cổ điển và dân gian, ví dụ như:
Thu non ngúng nguẩy dỗi hờn
Mưa nhòe nhoẹt tím/ nắng hơn hơn vàng
            (Thu ơi)
Lạc mình ai đón ai đưa
Lung lay chữ đợi/ lưa thưa quãng chờ
            (Đông về)
Nếu không có những bình minh
Bông duyên sao nở/ nhánh tình sao xanh?
            (Anh chỉ là thơ)
Em như đôi cánh chuồn chuồn
Khi bay giữa mộng/ khi luồn trong thơ
            (Trả anh)
Bắt đền anh phút chờ mong
Giậu ngoài im ỉm/ vườn trong héo chiều
            (Bắt đền)
Bài thơ mới nhất trao nhau
Mặc vôi bạc bẽo/ mặc cau úa vàng
            (Tình không cũ)
Giữ làm chi phút buồn đau
Để khô nét cúc/ để nhàu cánh sen
            (Trước thềm xuân)
“Nghiêng chiều” là tập thơ thứ ba của Lê Gái xuất bản sau hai tập “Người về từ độ thanh xuân” (2016) và “Tự khúc chiều xuân” (2018). Trong tập thơ này, nhiều bài chị dùng từ “chiều” như muốn ẩn dụ tuổi tác của mình, nhưng thực tế chị còn sung sức lắm, cả về thể chất cũng như sức sáng tạo thi ca. Điều này chắc do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự tiếp nhận năng lượng nhóm lên từ kỷ niệm gian khổ, ác liệt nhưng hào hùng một thời tuổi trẻ. Chúc mừng chị!
                              

  Tháng 10 năm 2020
                                             V.T


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 79
 Hôm nay: 3419
 Tổng số truy cập: 13459476
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa