Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Bình luận văn nghệ   /   Thơ Trương Đăng Dung - những ký tự của chúa - Mai Thị Hạnh Lê
Thơ Trương Đăng Dung - những ký tự của chúa - Mai Thị Hạnh Lê

Trương Đăng Dung ra mắt độc giả cuốn “Em là nơi anh tị nạn” hồi tháng 11 năm 2020.  Một tập thơ không giống thể thức nhiều những tập thơ khác: không lời đề dẫn giới thiệu, không viết đầy trang, không hình ảnh minh họa, ngôn ngữ không nặng về hình thức. Ông tạo một sự khác biệt từ những gì bình dị, chân thật nhất. Điều đó, tôi từng cảm nhận từ những cuộc trò chuyện với nhà thơ. Một nửa khoảng trống của mỗi trang giấy bỏ ngỏ dường như để chứa đựng những suy tư của người đọc, như một sự thách đố tâm can độc giả, cũng là khoảng trống trong tâm hồn chúng ta để mỗi người tự ngẫm.
Tôi cảm giác những ký tự đầu tiên của ông tại đề từ cho tập thơ thay mọi lời giới thiệu khác. Cái ẩn ức thơ mang khát vọng yêu: “Thế giới này không còn chỗ bình yên, em là nơi anh tị nạn”, “Anh muốn em là quá khứ để anh sống bình yên trong hiện tại; anh muốn em là hiện tại để anh hy vọng vào tương lai”. Đây chính là chìa khóa giải mã cho toàn bộ nội dung tập thơ.
Mỗi lần đọc thơ Trương Đăng Dung, tôi luôn như một bé con háu đói, rất vội vã, ngốn ngấu với ham muốn ôm trọn mọi góc cạnh thơ ông. Nhưng, lần nào cũng vậy. Đọc thơ ông, tôi giống kẻ phàm trần đầy bụng rồi mà không lấp được cảm giác thèm ăn, cảm giác khao khát tìm hiểu. Vì vậy, tôi lại đọc lại, dò dẫm, tựa vào từng chữ, tựa vào những ký tự trên tờ giấy mỏng manh. Thẩm đi thẩm lại, tôi hóa ra lại vỡ mộng về thế giới quan hạn hẹp của mình. Trương Đăng Dung cho ta thấy tham vọng của tôi và sự bé nhỏ của mình trước thế giới của ông.
Mặc dù đam mê thơ từ trẻ, hướng theo con đường văn nghiệp sớm, nhưng Trương Đăng Dung công bố “đứa con tinh thần” của mình khá chậm so với nhiều người viết thơ. Sự công bố một cách chậm chạp, ít ỏi ấy dường như để lắng lại, gợi mở. “Những kỷ niệm tưởng tượng” là tập thơ đầu tiên của ông được xuất bản năm 2011, 9 năm sau ông công bố tập thơ thứ hai “Em là nơi anh tị nạn”. Thơ ông luôn ám ảnh tôi về sự bất toàn của thế giới. Trong bài viết này, tôi xin được nói về hai vấn đề nổi bật trong thơ Trương Đăng Dung, đó là sự “hiện hữu và vô hình” và “cái tôi phiến diện, bất toàn”.
Hiện hữu và vô hình:
Trong hành trình nhận thức của chúng ta, ai không tin vào bóng mình trong gương, ai không tin vào sự gần gũi, hiểu biết nhau của các mối quan hệ thân tình và đặc biệt là không tin vào đời sống vợ chồng, vào chính bản thân ta…? Nhưng trong sự gần gũi mà ta mặc định, thực chất có chất chứa sự hoài nghi, ngăn cách. Bản diện càng tự nhận thức, càng muốn đến tuyệt đích thì càng khó hình dung, khó nắm bắt. Do vậy, hiểu đối phương, hiểu thế giới không phải là ở sự hiện hữu âm thanh, màu sắc, dáng vẻ… Vì vậy, nó càng ngột ngạt khi tìm hiểu lại cái mà ta tin chắc. Đó thực ra lại là sự lưỡng lự về chính mình. Ta có phải đã thật sự hiểu về chính mình? Càng thấy ta hiện hữu, càng trải nghiệm, gắng tìm hiểu mình ta lại hoang mang…
Để biểu đạt cái hiện hữu khó nắm bắt, Trương Đăng Dung sử dụng một số hình tượng mà điển hình là bức tường. Hình tượng bức tường có thể như tính tự phòng vệ của cá nhân. Nó làm nên khoảng cách, kìm chế sự tự nhận thức. Bức tường của sự hiểu biết, đồng cảm, cũng là bức tường của hiện thực, nó không sờ được, không hiển thị tại vị trí địa lý, nhưng rõ ràng là nó có - nó là khoảng cách về tâm hồn, nhận thức đối với một hoặc nhiều vấn đề xã hội. Nhận thức có “Bức tường” là sự gián đoạn nhận thức thế giới bên ngoài nhưng lại là cơ hội để chủ thể tự nhận thức về chính mình.
Chúng ta vẫn đôi lần bất lực trong khi nhận thức bản diện mình, do đó, nhận thức về xã hội, về nhân loại… đều rơi vào trạng thái đó. Có hiện hữu bức tường trong nhận thức của chúng ta.
Những bức tường, những bức tường có mặt khắp nơi,
Trong những lời vui đoàn tụ
Trong những lời buồn chia tay
Những bức tường ta không xây
Những bức tường không thể phá…

Đêm đêm anh vẫn nghe lũ quạ
Cười nói huyên thuyên trên những bức tường này.
Chúng ta làm sao để nhận ra những bức tường ấy? Sau cái ban ngày nhộn nhịp, gần gũi bởi hàng trăm thứ cuốn ta đi như sát sạt,  xoáy vào, thì cái còn lại là khoảng trống, là sự ngăn cách là bức tường mỗi đêm. Bóng đêm lại ám ảnh bức tường trong mỗi cá thể, nó là sự cay đắng hoài nghi, giằng xé, cật vấn lương tâm, sự xót xa vì bất lực, nỗi ám ảnh về khoảng cách. Ta có khoảng cách trong nhận thức với chính mình, đồng thời xuất hiện khoảng cách đối với nhận thức mọi vấn đề khác: tình yêu, dục vọng, thế giới ngoài kia… 
Thơ Trương Đăng Dung vừa giàu cảm xúc vừa dày độ trải nghiệm và tính triết lý. Ông lấy những cái gần gũi, đơn giản để tạo hình tượng về một vấn đề của xã hội, lấy cái cụ thể trong hiện hữu để nói cái trừu tượng trong hoài nghi.
Nhận thức là một quá trình, chúng ta có thể nhận thức được, nhưng quá trình nhận thức chứa đựng sự phức tạp. Vậy, trong cuộc đời chúng ta, với những gì trải qua, chúng ta tự cho mình nhận thức được bao nhiêu sự vật, sự việc? Chúng ta có bao nhiêu bức tường trải qua?  Và đặc biệt là, chúng ta đã dám đương đầu vượt qua bao nhiêu bức tường để thấu cảm nhân loại, thấu cảm chính mình?
Cái tôi phiến diện, bất toàn:
Thường thì chỉ có một “tôi” trong cá thể. Nhưng với góc quan sát, phân tích (“giải phẫu”) của Trương Đăng Dung, trong mỗi cá nhân còn có cái tôi (kẻ thứ ba - cái tôi phiến diện bất toàn). Kẻ thứ ba trong thơ Trương Đăng Dung không phải nhân vật trong một cuộc tình tay ba. “Kẻ thứ ba” trong thơ ông là sản phẩm của quá trình phân thân, kẻ đứng giữa, trải qua hành trình trung dung hoặc đứng giữa cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác của chính mình. Tự nhận mình là kẻ thứ ba, bài thơ “Trên bàn mổ” ông viết như để tự sự cùng mẹ. Ngay giữa lúc hồi hộp, hy vọng chờ đợi sự sống, con người sẽ nghĩ đến tình cảm thiêng liêng nhất, vì vậy, việc chúng ta nghĩ về đấng sinh thành là một điều dễ hiểu. Ông muốn bài thơ như một lời xin lỗi mẹ vì “con đã không giữ được vẹn toàn thân xác mẹ cho”. Thân xác ấy, dù cố gắng gìn giữ thì vẫn bất toàn. Ông chọn mình làm kẻ thứ ba, “giữa tâm hồn bất an và thể xác bất toàn”, kẻ thứ ba - kẻ đứng giữa những hoài nghi, cô đơn và bất lực, giữa bản năng sống và chết, giữa cơn đau thể xác và nỗi đau tâm hồn. Khi chỉ là hình hài ở trong mẹ, khi chỉ là đứa con của mẹ thì có sự thống nhất tạm thời, nhưng tâm hồn và thể xác ấy trong mối tương quan với phận người, với cái bản ngã lại cho thấy một sự bất tương xứng.
Con chỉ muốn về nhà với mẹ
Cho tâm hồn và thể xác về theo
“Trên bàn mổ” ở bệnh viện là lúc giải phẫu thân xác, nhưng cũng là hình tượng để nhà thơ “giải phẫu” chính mình. Trương Đăng Dung cho thấy, cuối cùng con đường lựa chọn làm người lại luôn là hành trình đầy phân vân, cực nhọc. Nó không có thắng, không có danh hiệu mà chỉ có nỗ lực và cảm nhận. Rốt cuộc, chúng ta đã sống ra sao, đã đối xử với chính mình như thế nào? Chúng ta có trách nhiệm với tình yêu của đấng sinh thành một cách tử tế ra sao, không phải là chúng ta mang về danh hiệu mà chính là chúng ta đối xử với tâm hồn ta, với chính cuộc đời ta. 
Và trong mỗi cuộc đời chúng ta, có bao lần ta đứng trước nguy cơ gục ngã? Người đàn ông mạnh mẽ trong thơ ông là kẻ đắm đuối yêu nhưng luôn hoài nghi, xót xa về phận người. Bao gánh nặng trong khát vọng suy tưởng đó cuối cùng đặt ở đâu? Dường như luôn có bóng dáng một người phụ nữ như ẩn ý của tiêu đề tập thơ “Em là nơi anh tị nạn”. Nơi người đàn ông ấy cần dựa dẫm là bình yên, yêu thương, nên trong thơ ông có lúc là hình ảnh người mẹ, có lúc là người vợ, người yêu.
Trong bài thơ “Ác mộng” bày tỏ thân phận người luôn phải chịu rượt đuổi, phân tâm trong hành trình tìm chân, thiện, mỹ. Sự trăn trở của kiếp người và ẩn sau đó là trùng trùng xót xa, thử thách xen lẫn cơ hội hồi sinh. Khi bị tất cả khó khăn rượt đuổi, tưởng chừng không vượt qua được thì con người chúng ta thảng thốt trông đợi những gì gần gụi nhất, như một cứu cánh cuối cùng. Người đàn ông trong giấc mộng đó đã chạy trối chết khắp mọi nẻo, trước bao cám dỗ và nguy hiểm bủa vây, để rồi anh cầu cứu một người phụ nữ. Người phụ nữ không có phép màu và sức mạnh phù phép giết chết những nhện đen, thằn lằn, hổ, rắn. Người phụ nữ không có phép để kéo anh ra khỏi đoàn người tật nguyền rượt đuổi, khỏi thảm họa của chiến tranh, chết chóc và thương tật. Người ấy đã chờ anh ở trong tận cùng, trong sự cách biệt, trong sự tĩnh lặng, sự thanh thản - không bằng hành động như cái ôm, không kéo lên, không nói. Toàn bộ sức mạnh của người phụ nữ vừa mang tính chân thực vừa mang sức mạnh siêu nhiên. Thông qua cách gợi mở biểu cảm lộ trong hình ảnh cánh cửa ngôi nhà. Chỉ cần ngôi nhà mở cửa là cứu cánh, là thánh đường, là bình yên của một đời. Tuy nhiên, cuộc tìm kiếm chỗ trú chân trở nên bất toàn bởi nó vô định, ngôi nhà nào mở cửa dưới đáy sông để ta trú ngụ?
Thơ Trương Đăng Dung không đến với chúng ta bằng vẻ của chàng trai hào nhoáng, khí thế của một nam thần. Ngôn ngữ thơ ông giản dị, ta đọc và thấm thía hình tượng trong lớp vỏ ngôn từ bình dị. Cái mà ta thấy ở đó là chiều sâu của con người nói chung, trong đó toát lên lòng nhân ái, khao khát thấu cảm và bản lĩnh đương đầu để tìm kiếm sự thấu cảm giữa những con người. Tôi gọi những ký tự thơ Trương Đăng Dung là ký tự của Chúa, bởi vì, ta chỉ thấy được ta trong cái giới hạn của chính mình, còn Chúa thấm tinh thần trong thân thể ta, trong những nỗi buồn trên gương mặt tươi tắn, thấy và thấu hiểu khiếm khuyết trong mỗi thành tựu. Trong đó, hành trình sống luôn gắn với cuộc tìm kiếm sự trú ngụ, nhưng nó đầy khó khăn, mệt mỏi bên một thánh đường mở cửa.
                                

M.T.H.L


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 65
 Hôm nay: 752
 Tổng số truy cập: 13456809
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa