Thái vương Trịnh Kiểm - Người anh hùng áo vải trong công cuộc trung hưng nhà Lê
Thái vương Trịnh Kiểm - Người anh hùng áo vải trong công cuộc trung hưng nhà Lê
HỎA DIỆU THÚY
Vĩnh Lộc có tên cũ là Vĩnh Ninh (thời Lý - Trần), Vĩnh Phúc (thời Lê sơ), Vĩnh Lộc (thời Tây Sơn) và tên này theo đến giờ. Dưới triều Hồ, đất Vĩnh Ninh là kinh đô của nước Đại Ngu (1400-1407) gắn với tòa thành đá đã tồn tại hơn 600 năm được UNESCO vinh danh năm 2011.
Trong lòng không gian Vĩnh Lộc ôm những di chỉ lịch sử văn hóa đặc biệt: Di chỉ Đa Bút (xã Vĩnh Tân) - dấu tích thời kỳ đồ đá mới; Di chỉ Bản Thủy (xã Vĩnh Thịnh), Di chỉ làng Còng (xã Vĩnh Hưng) - là những dấu tích của văn hóa Đông Sơn. Từ hàng ngàn năm trước, Vĩnh Lộc từng là nơi chứng kiến con người bước từ thế giới hang động sang thế giới văn minh. Mỗi ngọn núi, địa danh nơi đây không chỉ đi vào lịch sử - văn hóa Việt Nam mà còn hiện diện trên bản đồ thế giới.
Trong không gian khôi vĩ giàu trầm tích văn hóa ấy, xuất hiện một họ tộc xuất sắc, họ Trịnh! Họ Trịnh tỏa sáng gắn với tên tuổi hai nhân vật kiệt hiệt thuộc về hai giai đoạn lịch sử cách nhau tới hơn một trăm năm. Đó là Hiển Khánh vương Trịnh Khả - khai quốc công thần triều Lê Sơ và Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm thời Lê Trung hưng. Họ cùng sinh ra từ mạch nguồn núi Sóc, làm rạng rỡ họ Trịnh gốc Vĩnh Lộc trên vũ đài lịch sử Việt Nam.
Trong phương ngôn, tục ngữ Thanh Hóa, nhân dân đã dành nhiều sự ngưỡng mộ và cũng đúc kết về sự độc đáo cho vùng đất nổi tiếng này: Văn Bồng Báo, võ Vệ Yên; Nghệ Đông Thành, Thanh Đông Biện; Ngựa xe về Bồng Báo…
Khác với Trịnh Khả xuất thân danh gia vọng tộc, có ông, cha từng làm quan dưới triều Trần, Trịnh Kiểm xuất thân bần hàn. Ông sinh năm 1503 tại làng Biện Thượng, là con trai thứ 3 trong gia đình có 6 anh chị em. Tổ tiên lấy nghề chăn trâu, làm ruộng làm nghiệp. Trịnh Kiểm mồ côi cha từ năm lên 6, lớn lên phải đi chăn trâu bò thuê cho các nhà có trang ấp trong núi Lệ Sơn. Để cắt nghĩa cho cho sự thành công đến phi thường của ông, dân gian đã dựng nên những tình tiết nhuốm màu huyền thoại: tằng tổ được mách bảo nơi táng mộ sẽ phát vương sau bốn đời; khi sinh ra, “có ánh sáng đỏ chiếu đầy cả phòng”; từ thuở nhỏ, “đã thông đạt, không như người thường”; sinh ra đã có tướng mạo phi phàm “mặt vuông tai to”, v.v…
Cho dù được phủ lên màn sương kỳ ảo, cái lõi sự thật của nguồn gốc Trịnh Kiểm vẫn là câu chuyện xuất thân nghèo khó. Cha mất sớm, cảnh mẹ góa con côi bị làng xóm coi thường. Tuổi thơ của Trịnh Kiểm lang thang, ngang dọc cùng những đàn trâu bò nơi rừng hoang, đồng bái.
Nhưng đúng là đứa trẻ ấy từ nhỏ đã mang những tố chất phi phàm. Đất Vĩnh Ninh - Vĩnh Lộc hàng trăm năm trước, rừng núi vây quanh, voi, hùm beo, trăn, gấu, lợn lòi từng đàn, những kẻ dám nhận việc trông coi chăn thả trâu bò không chỉ cần phải nhanh nhẹn, khỏe mạnh mà còn phải can trường, gan góc vì hàng ngày luôn phải đối diện với nguy hiểm từ môi trường hoang dã. Khi đi chăn trâu, chăn ngựa, Trịnh Kiểm thường “tụ tập trẻ mục đồng, lấy gà vịt làm lương thực, lấy trâu bò giả làm voi ngựa, bẻ bông lau giả làm cờ xí, bầy cơ ngũ, tập trận mạc”(1). Sự quậy nghịch táo tợn và liều lĩnh của Trịnh Kiểm khiến làng muốn trị tội, quy cho là đạo cướp muốn giết đi. Mười sáu tuổi, Trịnh Kiểm phải lánh nạn, xin chăn ngựa cho Ninh Bang Hầu, một bề tôi nhà Mạc. Song, dường như ngay ở thời điểm ấy, chàng trai mới lớn đã có chí hướng và lựa chọn con đường lập thân, Trịnh Kiểm lấy trộm ngựa quý của Bang Hầu chạy sang Mường Sùng (Cổ Lũng - Ai Lao), nơi ấy An thanh hầu Nguyễn Kim đang tập hợp hào kiệt, mưu dựng công cuộc trung hưng nhà Lê. Như vậy, ngay từ đầu, Trịnh Kiểm đã chọn nhà Lê chứ không chọn nhà Mạc. Trong ý chí và tâm nguyện, chàng trai trẻ đã quyết chọn bên “chính danh” chứ không phải bên “tiếm ngôi”. Lựa chọn “chính danh” là cách lựa chọn theo luân lý Nho giáo của thời đại khi ấy: “sinh vi tướng, tử vi thần” (sống làm tướng giỏi, chết làm trung thần). Những ngày trú ngụ tại nhà Ninh Bang Hầu phải chăng chỉ là lánh nạn khi lượng thấy mình chưa đủ vóc vạc để ra mắt minh chủ và biết đâu trong đó còn ẩn giấu ý đồ tìm kiếm ngựa quý để thực hiện hành trình vạn dặm?
Không theo nhà Mạc khi nhà Mạc đang ở thế thượng phong, lựa chọn phò Lê khi nhà Lê đã ở hồi “mạt vận”, lặn lội tìm đến Hưng Quốc công Nguyễn Kim để thỏa chí trai thời loạn của mình là lựa chọn khó khăn và không hề đơn giản. Nó cho thấy tố chất trung nghĩa, quả cảm, dũng lược - những phẩm chất cao quý và vô cùng thiết yếu của người anh hùng. Những phẩm tính đó càng được khẳng định khi nhà Mạc lẻn cử người đến mua chuộc nhưng Trịnh Kiểm chối từ; cử Nguyễn Hoàng đi trấn thủ Thuận Hóa với lời dặn: “Nhà nước trao cho khanh chức nhiệm nặng nề này, khanh nên trước sau một tiết, dốc hết tâm sức như xưa để phò tá nhà vua”. Có lẽ những phẩm chất này đã bộc lộ qua những lần tiếp xúc, thực thi nhiệm đã khiến Hưng Quốc công tin yêu mà gả con gái cho, cũng tin cậy mà cho ở dưới trướng để rèn cặp, coi như nanh vuốt, cùng ông đánh đông dẹp bắc và tiến cử thay thế ông vị trí tiết chế, thống lĩnh toàn quyền công cuộc trung hưng nhà Lê?
Công cuộc phò Lê diệt Mạc đồng thời cũng là hành trình lập công thăng tiến đến sự nghiệp vương bá của Trịnh Kiểm, ông đã đạt đến danh vị bằng thực lực, bằng mưu lược, lòng trung thành tận tụy và tài năng, bản lĩnh hơn người.
Điểm lại những lần ông xử lý tình huống là những đòn cân não, những lần cầm quân không cân sức mà quân nhà Lê luôn dưới cơ, cho thấy tầm vóc của người anh hùng, như: làm trụ cột tinh thần cho triều đình trung hưng mới được nhen, tiến tới làm trụ cột trong các cuộc cầm quân chinh phạt: dẹp phản loạn Trịnh Công Năng, tổ chức các trận đánh quân Mạc với phương châm: lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều, biến điểm mạnh của địch thành điểm yếu khi đưa chúng vào thế chủ quan. Hơn chục trận đánh dưới sự chỉ huy của Dực Quận công, sau là Đô tướng tiết chế Thái sư Lạng Quốc công đều thắng lớn. Tướng nhà Mạc là Mạc Kính Điển, viên tướng lão luyện ít nhất hai lần (1555, 1557) thảm bại dưới tay vị tướng trẻ: “Kính Điển sợ vỡ mật, thu nhặt quân tàn về Kinh”, “Kính Điển chỉ thoát được thân, vào trong hang núi ẩn náu 3 ngày, đói lắm, đêm thấy cây chuối trôi qua cửa hang mới ôm lấy cây chuối để lội đường tìm về…”(2). Khí quân mạnh dần lên, Lạng Quốc công tổ chức những trận đánh lớn lên đến hàng vạn người. Mạc Kính Điển “đề phòng” Trịnh Kiểm đến mức phải thú nhận: “Nay quân của họ là hạng tinh nhuệ, khó lòng mà tranh với họ, sợ địch không nổi”(3) cho thấy tài cầm quân của vị Thái sư xuất thân áo vải.
Bước đi đưa vua Lê Trang Tông về lập hành điện ở sách Vạn Lại năm 1546 đối trọng với nhà Mạc là bước đi chiến lược, cho thấy trí tuệ sắc sảo và tự tin của Lạng Quốc công Trịnh Kiểm. “Danh chính ngôn thuận”, Tây Kinh của nhà Lê đã gián tiếp biến Đông Kinh mà nhà Mạc đang chiếm giữ thành Ngụy triều! Thêm nữa, vị trí Vạn Lại cũng đắc địa cho kinh thành kháng chiến. Ba mặt có rừng núi che chở, khi yếu thế có thể rút lui bảo toàn, trước mặt thông xuống đồng bằng phì nhiêu việc huy động quân lương cũng thuận lợi. Quân Mạc từ Đông Kinh muốn đánh tới Vạn Lại bằng đường rừng hay đường đồng bằng đều xa xôi, cách trở. Đường rừng núi hiểm trở khó đi, đường đồng bằng phải vượt sông, quân Lê, sẽ có thời gian chuẩn bị, chủ động bố phòng nghênh chiến.
Góp phần cho sự lớn mạnh của quân Lê ngoài tài dùng binh, còn phải kể đến khả năng thu phục nhân tâm của Thái sư Trịnh Kiểm. Cách ứng xử với hàng tướng cũng bộc lộ dũng khí và nhân cách của kẻ quân tử, bậc trượng phu. Tiếng tăm trong cách cư xử với hàng tướng khiến nhiều tướng nhà Mạc xin quy thuận. Những trường hợp ông thu phục hàng tướng, có thể nhận ra con mắt tinh đời và trái tim ấm áp của ông trong cảm nhận và đánh giá con người, như trường hợp thu phục cha con Lê Bá Ly lão tướng trụ cột của nhà Mạc, Chu tước Nghĩa Quận công, v.v…
Quan trọng nhất của thu phục nhân tâm là vỗ yên dân chúng, giữ cho dân yên ổn làm ăn. Ngược với quân Mạc, mỗi lần vào Thanh Hóa là “lấn cướp cư dân”, Thái sư mỗi lần cất quân đều nghiêm lệnh “binh đi qua đâu, không xâm phạm mảy may, dân đều hàng phục, ở yên như cũ, tranh nhau đem trâu rượu, hương gạo cấp cho quân”(4), Thái sư còn sai quan lệnh địa phương đốc thúc dân chúng “sửa đắp đê điều, mở rộng đường sá (…) Từ đấy trấn Sơn Nam từ sông Cái về phía Tây đất đai và nhân dân các huyện đều thuộc về triều đình, quân Thanh lừng lẫy đánh đâu được đấy”(5).
Công cuộc trung hưng nhà Lê tiến thêm một bước vững chắc khi Thái sư tổ chức thi cử, lựa chọn hiền tài giúp nước. Đây là bước ngoặt quan trọng của công cuộc trung hưng, nhà Lê đến đây đã khẳng định nền tảng xã hội ổn định, hướng tới xây dựng xã hội thái bình thịnh trị. Từ đây, công cuộc trung hưng xác lập hai nhiệm vụ song song: thống nhất giang sơn và chuẩn bị tiềm lực để tái thiết đất nước.
Khi Trịnh Kiểm mất, sự nghiệp trung hưng còn dang dở nhưng ông đã xây dựng nền tảng vững chắc để con trai mình hoàn thành sự nghiệp, mở ra triều đại lâu dài gắn liền với cách tổ chức nhà nước chưa có tiền lệ ở Việt Nam: vua và chúa cùng cai trị (vua Lê - chúa Trịnh), trong đó vua chỉ là “linh hồn”, chúa mới thực quyền cai trị. Mô hình tổ chức nhà nước này, giờ đây nhiều nước trên thế giới vẫn đang vận dụng, tuy nhiên, dưới một dạng thức khác.
Đánh giá công lao, tài đức của Thái vương Trịnh Kiểm, sỹ phu Đại Nam thời Nguyễn Phan Huy Chú viết trong Lịch triều hiến chương loại chí: “… Về sau được Dực quận công Trịnh Kiểm giúp đỡ, vua hết lòng tin theo, cất người hiền, dùng kẻ tài, chăm dân, thương lính, sửa sang pháp lệnh, trong cõi rất yên. Rồi đem quân tiến đánh lấy được cả đất cát châu Ái, châu Hoan, dựng hành điện ở sách Vạn Lại. Các hào kiệt ở xa theo về cả. Cơ nghiệp trung hưng bắt đầu từ đây”.
“Nhà Lê nhờ Trịnh Kiểm mới trung hưng được, mà họ Trịnh lập nên nghiệp Chúa cũng là khởi đầu từ Trịnh Kiểm vậy” (Trịnh Như Tấu).
Trịnh Kiểm là vị tướng áo vải, lớn lên với tuổi thơ dữ dội. Những phẩm tính “trời cho” được rèn trong môi trường khắc nghiệt đã rèn nên vị tướng rắn rỏi, quyết đoán, tận tụy với sự nghiệp trung hưng. Khi ông mất được truy tôn miếu hiệu là Thế tổ, thụy hiệu là Minh Khang, công lao được được truy tặng trong 232 chữ.
Họ Trịnh với Thái vương Trịnh Kiểm đã bước lên vũ đài lịch sử từ một nông dân nghèo.
H.D.T