Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Văn hóa   /   Tín ngưỡng thờ Mẫu và đạo Mẫu trên miền đất trạng Quỳnh - Hoằng Hóa   
Tín ngưỡng thờ Mẫu và đạo Mẫu trên miền đất trạng Quỳnh - Hoằng Hóa   

Tín ngưỡng thờ Mẫu và đạo Mẫu trên miền đất trạng Quỳnh - Hoằng Hóa   

NGUYỄN XUÂN LONG

Tín ngưỡng là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng, đặt biệt là ở Việt Nam. Nó không chỉ là niềm tin mà còn là hệ thống các hoạt động, nghi lễ, phong tục tập quán được hình thành và duy trì, thể hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, thế giới tâm linh và cộng đồng xã hội. Tín ngưỡng là di sản văn hóa phi vật thể, gắn bó mật thiết với đời sống, thể hiện rõ qua việc thờ cúng tại các đền, miếu, chùa và các không gian linh thiêng khác. 
Trong số các tín ngưỡng dân gian, thờ Mẫu là hình thức độc đáo, mang đậm bản sắc Việt. Tín ngưỡng này đã ăn sâu vào tâm thức người dân, tồn tại và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử. Nó gắn với truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, thể hiện nguồn gốc “con Rồng cháu Tiên” của dân tộc và là biểu hiện của lòng biết ơn, tôn kính người mẹ sinh thành. Mẹ là vĩnh hằng, là bất tử. Thờ Mẫu chính là sự tôn vinh phụ nữ - những người tảo tần “một nắng hai sương”, chắt chiu chăm lo cho gia đình, làng xóm, quốc gia.
Trong xã hội nông nghiệp truyền thống, con người sống lệ thuộc vào thiên nhiên. Trời - đất - nước là cội nguồn sự sống. Người dân thờ Mẫu Trời, Mẫu Đất, Mẫu Nước với khát vọng được che chở, bảo hộ khỏi thiên tai, bão lụt, mất mùa… Từ tín ngưỡng dân gian ấy hình thành nên Đạo Mẫu - đạo nội sinh, kết tinh văn hóa bản địa Việt.
Nằm ở hạ lưu vùng phù sa cổ của đồng bằng sông Mã, Hoằng Hóa (tỉnh Thanh Hóa) nổi tiếng là vùng đất có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, phong phú và giàu giá trị, đồng thời mang đậm sắc thái văn hóa riêng của một miền quê xứ Thanh. Với người dân nơi đây, tín ngưỡng thờ Mẫu là nét văn hóa đặc trưng, phổ biến, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu - Đạo Mẫu trên đất Hoằng Hóa, quê hương của Trạng Quỳnh, dân gian còn lưu truyền giai thoại rằng Trạng từng ba lần chọc ghẹo, trêu đùa bà Chúa Liễu tại đền Sòng - nơi được xem là linh thiêng bậc nhất của xứ Thanh.
Không thể thống kê đầy đủ và chính xác số lượng đền, phủ thờ nữ thần, thờ Mẫu trên đất Hoằng Hóa, cả trong quá khứ lẫn hiện tại. Tuy nhiên, theo Địa chí văn hóa Hoằng Hóa (in lần thứ hai, do PGS. Ninh Viết Giao chủ biên, có sự cộng tác của GS. Hoàng Tiến Tựu, Viên Ngọc Lưu, NXB Khoa học Xã hội - Hà Nội, năm 2000), việc thờ nữ thần được ghi nhận ở hầu khắp các địa phương trong huyện. Sự hiện diện dày đặc của các đền, phủ thờ nữ thần cho thấy tín ngưỡng này ăn sâu trong đời sống tinh thần của cư dân nơi đây: gần như 100% thôn làng, xã đều có hình thức thờ tự này. Dù được tôn xưng bằng mỹ tự hay duệ hiệu là “công chúa”, những nữ thần được thờ phần lớn không phải là con vua, mà là những người phụ nữ bình dị, nghèo khó, chủ yếu làm nông. Họ là những người mẹ, người vợ tảo tần, cần cù lao động, tích cóp từng đồng, lo toan cho hạnh phúc gia đình, nuôi dạy con cái nên người và đóng góp lặng thầm cho sự yên ổn, phát triển của làng xóm. 
Trong số các nữ thần ấy có người đã giúp Lê Lợi thoát khỏi tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”; có người thì hướng dẫn và cùng con cháu khai khẩn đất đai, mở rộng diện tích canh tác, trồng trọt cho dân làng; có người bỏ tiền của, công sức chiêu dân phiêu tán lập làng, lập ấp; có người cúng ruộng, tiền cho làng bắc cầu, xây cống để người dân đi lại thuận tiện, xây chùa thờ phật. Lại có người là tổ sư nghề nghiệp dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, quay xa, dệt vải; nhiều người là nhũ mẫu, phi tần trong cung vua, phủ chúa khi về già ra khỏi cung được ban một số tiền bạc, họ đã mua ruộng cúng tiến làng, cấp cho các gia đình nghèo khó có ruộng để sản xuất, làm ăn. 
Làng Nghĩa Hương (xưa là làng Sở) xã Hoằng Xuân có phủ riêng để thờ bà Hà Thị Cai - người có công chiêu dân lập làng Nghĩa Hương và từng giúp Lê Lợi trên đường lánh nạn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Sau khi đánh đuổi giặc Minh, giành độc lập cho đất nước và Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế, người khởi nghiệp triều Lê đã ghi nhớ công ơn, phong tặng bà Hà Thị Cai là “Quốc Mẫu” và cho lập đền thờ, bốn mùa hương khói. 
Tất cả những người phụ nữ ấy được dân làng yêu mến tôn kính, phụng thờ ở nghè, miếu. Trong tâm khảm của người dân hình ảnh những nữ thần ấy đều là những người có lòng vị tha, sống có nghĩa có tình, thương dân, che chở, phù hộ độ trì cho cuộc sống của người dân bình yên, ấm no, hạnh phúc. Những vị nữ thần được thờ ở các địa phương trong huyện, có thần nguồn gốc cụ thể rõ ràng, có thần không rõ lai lịch nhưng tất cả các vị nữ thần đều được gắn với một huyền thoại hay một truyền thuyết giải thích việc ra đời, phụng thờ và các nữ thần được thờ đều rất linh thiêng. Các vị nữ thần này trong phạm vi nào đấy, họ đều là những người có công với dân, với nước.
Trước thế kỷ XVI, trên đất Hoằng Hóa, Phật giáo và Nho giáo khá thịnh hành, trong đó Phật giáo có vai trò nổi bật trong đời sống tinh thần của nhân dân. Phật giáo được du nhập vào Hoằng Hóa không biết tự bao giờ, nhưng phát triển rầm rộ có lẽ vào thời nhà Lý. Triều đại nhà Lý xem đạo Phật là quốc đạo. Người dân không hiểu nhiều về các giáo lý “Lục đạo luân hồi”, các thuyết lớn về đạo Phật. Họ đến với Phật, cúng Phật để tránh điều ác, tai ương; mong gặp điều tốt lành, may mắn. Đức Phật Thích Ca, Quan Thế Âm Bồ Tát, Nam Hải Bồ Tát, Quan Âm Thị Kính chiếm vị trí quan trọng trong đức tin của người dân thôn quê. Các nhân vật này đều là hình ảnh của lòng bao dung, vị tha, đức tính nhẫn nhịn, ý chí kiên cường... bao trùm cả dân tộc và nhân loại. Những đức tính ấy thống nhất với đạo lý cổ truyền của nhân dân là hiếu thuận, thương người, chịu đựng, tha thứ mà chúng ta thường gặp trong đời sống hàng ngày. Nhưng rồi đạo Phật thất thế dưới triều nhà Hồ và suy yếu hẳn trong thời nhà Lê.
Nho giáo cũng khó đoán định thời gian có mặt trên đất Hoằng Hóa nhưng phát triển cực thịnh dưới thời Lê sơ, Lê Trung hưng (thế kỷ XV-XVIII). Nho giáo trở thành quốc giáo. Người ta biết đến đạo Nho bởi những luân lý chặt chẽ, trói buộc sức sáng tạo của con người, nhất là người phụ nữ với “Tam cương, ngũ thường”, “Tam tòng tứ đức”, “Nam nữ thụ thụ bất thân”... Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đã chấm dứt vai trò lịch sử của chế độ phong kiến. Xã hội bước sang thời kỳ đổi mới, con người đổi đời, đạo Nho cũng dần mất đi vị thế vốn có trong đời sống tinh thần của người dân.
Đạo Lão “lấy thanh tĩnh tự nhiên” làm tôn chỉ, mục đích, coi việc đời tới đâu ứng phó tới đó, không cần khó nhọc tâm cơ hay hao tổn tinh thần, cứ thuận theo lẽ tự nhiên mà hành xử, thì mọi sự rồi sẽ an bài. Tại Hoằng Hóa, số người đi theo đạo Lão không nhiều. Tuy nhiên, rải rác trong huyện, ở một số làng như Ngọc Lâm, An Lạc (Hoằng Hải), Xuân Vi (Hoằng Phụ), Đại An (Hoằng Lương)... vẫn có nơi thờ các vị như Thượng Thiên Diệu Linh Công chúa, Liễu Hạnh Công chúa, Bảo Anh phu nhân. Tuy nhiên, các vị này được tôn thờ với tư cách là thần tiên - tương tự Giáng Kiều và Tú Uyên ở Bích Câu Đạo quán, Huyền Thiên Trấn Vũ ở đền Trấn Vũ (Quán Thánh, Hà Nội)… chứ không phải là Thánh Mẫu trong hệ thống Tam phủ, Tứ phủ của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ - tức Đạo Mẫu là đạo nội sinh xuất phát từ tâm thức và sức sáng tạo của người Việt, có nguồn gốc bản địa đích thực. Tại Hoằng Hóa, Đạo Mẫu được du nhập muộn, vào khoảng nửa sau thế kỷ XVII và phát triển mạnh trong thế kỷ XVIII. Tín ngưỡng thờ Mẫu với mục đích tôn vinh vai trò của người phụ nữ, giải phóng người phụ nữ ra khỏi vòng kìm hãm của xã hội phong kiến, đề cao vai trò của họ trong cuộc sống lao động, thỏa mãn nhu cầu và khát vọng về quyền tự do trong tình yêu lứa đôi, trong quan hệ nam nữ, trong hôn nhân gia đình, từ quyền làm chủ bản thân mình tiến tới làm chủ xã hội. Hướng con người đến lòng từ bi, bác ái, là nền tảng của đạo đức xã hội, nguyên tắc ứng xử giữa người với người và với cộng đồng xã hội. So với các đạo đã từng tồn tại trong đời sống tinh thần của người Việt mà người Hoằng Hóa cũng không ngoại lệ. Một mặt Đạo Mẫu lan tỏa sâu rộng, có sức sống bền bỉ, được lòng dân hơn, dễ gần hơn vì Mẫu là mẹ, là tình thương bao la, Mẫu luôn luôn mở rộng tấm lòng biển cả, dang rộng cánh tay ấm áp, yêu thương, sẵn sàng cứu vớt mọi đứa con chìm đắm nơi biển khổ, nơi sóng gió muôn trùng. Mặt khác tín ngưỡng này tôn vinh người phụ nữ với vai trò rất quan trọng trong đời sống gia đình - xã hội. Mẫu trở thành nguồn cội gắn liền với tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước. Như vậy có thể thấy rằng Đạo Mẫu khá thông thoáng, cởi mở, khả năng tiếp thu, tích hợp và bản địa hóa nhiều yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo khác như thờ cúng tổ tiên, Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và văn hóa các dân tộc thiểu số. Điều đó thể hiện tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc trong dòng chảy giao lưu và đa dạng văn hóa của người Việt. 
Tục thờ ba Mẫu Trời, Đất và Nước - gọi là thờ Tam phủ, với Tam tòa Thánh Mẫu dùng để chỉ hệ thống sáng tạo vũ trụ gồm ba vị Thánh cai quản ba miền vũ trụ: Mẫu Thượng Thiên (còn gọi là Mẫu Đệ Nhất) - cai quản miền trời; Mẫu Thượng Ngàn (Mẫu Đệ Nhị) - cai quản miền rừng núi; Mẫu Thoải (Mẫu Đệ Tam, gọi trệch từ “Thủy”) - cai quản miền sông nước. Về sau, để đáp ứng nhu cầu tâm linh và khát vọng hướng về cội nguồn dân tộc, tục thờ Tam phủ được mở rộng, bổ sung thêm một vị Thánh Mẫu - Mẫu Liễu Hạnh - người được xem là hiện thân của mẹ nhân gian, của con người trần thế. Từ đó, hình thức thờ Tam phủ được phát triển thành Tứ phủ, với bốn vị Mẫu: Mẹ Trời - Mẫu Thượng Thiên, Mẹ Đất - Mẫu Thượng Ngàn, Mẹ Nước - Mẫu Thoải và Mẹ Người - Mẫu Liễu Hạnh. Trong thực hành tín ngưỡng, các nơi thờ Tứ phủ thường có tượng hoặc hình ảnh một vị Mẫu mặc áo đỏ, đứng hoặc ngồi phía trước ba Mẫu còn lại - đó chính là Mẫu Liễu Hạnh. Tuy nhiên, qua thời gian, trong tâm thức dân gian, ông cha ta đã đồng nhất Mẫu Liễu Hạnh với Mẫu Thượng Thiên, coi đó là một vị thần duy nhất đứng đầu. Do vậy, dù gọi là Tứ phủ, nhưng hệ thống thờ vẫn mang tên Tam tòa Thánh Mẫu, với Mẫu Liễu Hạnh là thần chủ, giữ vị trí trung tâm và tối thượng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Điều khác biệt trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ - Đạo Mẫu trên đất Hoằng Hóa so với một số nơi như: Phủ Dầy, Phố Cát, Sòng Sơn, Phủ Na và một số địa phương khác:
Thứ nhất là rất ít làng, xã có thần điện nguy nga, tráng lệ riêng để thờ Tam tòa Thánh Mẫu (trừ Phủ Vàng làng Đại Điền, xã Hoằng Xuân) đa phần phối thờ cùng Thành Hoàng làng với bài trí sắp xếp “Tiền Mẫu hậu Thánh” hoặc cùng thờ ở chùa với Phật “Tiền Phật hậu Mẫu”, “Vào Phật về Mẫu”. Hầu hết các đền, chùa của các làng, xã trong huyện đều có ban thờ Tam tòa Thánh Mẫu, Mẫu hiện diện khắp nơi đa dạng và phong phú. Đạo Mẫu ăn sâu, bám rễ bền vững, lan tỏa trong đời sống tâm linh, trong tâm thức của người dân Hoằng Hóa và ngày càng phát triển mạnh mẽ, sôi động ngay cả trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới kiểu mẫu. Đời sống vật chất được nâng cao, đời sống tinh thần phải phát triển tương xứng. Xây dựng nông thôn mới thành công là công sức của toàn dân nhưng đóng vai trò hết sức quan trọng góp phần vào thắng lợi là công lao to lớn của những người phụ nữ.
Có thể gọi Phủ Vàng thuộc làng Đại Điền, xã Hoằng Xuân là thánh thất, tâm điểm của tín ngưỡng thờ Tam phủ của huyện Hoằng Hóa. Phủ tọa lạc, nằm phía Tây Bắc núi Vàng cách đó chừng 3km qua Ngã Ba Bông nơi con gà gáy 6 huyện cùng nghe, là quần thể di tích đền cô Bơ (cô Ba Bông) và đền Hàn Sơn nơi thờ chính Mẫu Thoải. Phủ Vàng được xây dựng lại trên nền đất cũ năm 1996. Hàng năm nơi đây đón rất nhiều lượt khách đến thăm viếng, chiêm bái cả đường bộ lẫn đường sông, của khách du lịch đường thủy từ Hàm Rồng đi Cửa Hà, Cẩm Thủy, nhộn nhịp nhất là tháng 3 âm lịch trong đó chính hội ngày 3 tháng 3 - ngày hóa của Liễu Hạnh công chúa.
Thứ hai là các làng, dòng họ, thậm chí là các gia đình thờ bà tổ cô (hay còn gọi là bà cô tổ). Những bà tổ cô thường được cành thứ của họ thiết lập bàn thờ, (không có nhà thờ riêng) vậy tổ cô là ai? Có người rõ tên họ, có người không rõ tên. Nhưng tổ cô là em ông tổ của họ hoặc con gái ông tổ họ. Những người này phần lớn đều quá lứa lỡ thì ở vậy cho đến lúc qua đời, hậu ruộng cho họ để họ thờ. Các bà tổ cô đều rất linh thiêng, có phần linh thiêng hơn cả ông tổ của dòng họ. Trong họ và cả ngoài họ, ai ốm đau, ai bị tai họa, ai có điều gì cần mách bảo, cứu giúp... đến cúng lễ, cầu khấn bà tổ cô, tất cả đều được bà tổ cô phù trợ, không đòi hỏi lễ lạt, không cần trả ơn chỉ cần nén nhang, bát nước, cơi trầu là đủ. Bà tổ cô lúc sống bất hạnh mà khi qua đời, vẫn luôn dõi theo, phù hộ độ trì cho con cháu được hạnh phúc, an khang, tốt lành.
Bà tổ cô là phiên bản của nữ thần, của Mẫu được các làng thờ, cũng có thể nói là một dạng, dị bản trong tín ngưỡng thờ Tam, Tứ phủ. Các bà tổ cô được nhiều dòng họ ở Hoằng Hóa phụng thờ đều là biểu tượng của hạnh phúc, của tình yêu vĩ đại, của hy sinh, của đạo lý, của những gì chân chất, mộc mạc, của những tấm lòng vị tha, xả thân vì nghĩa lớn... Tóm lại là biểu tượng mang đầy đủ tình cảm, tính cách có ý nghĩa xã hội sâu sắc và phổ biến có cội nguồn sâu xa “Người mẹ của cả dân tộc”. 
Trải qua thời gian, có những giá trị văn hóa dần mai một. Thế nhưng, tín ngưỡng thờ Mẫu, dù đi qua nhiều thăng trầm, vẫn trường tồn cùng năm tháng. Những giá trị tốt đẹp, nhân văn, nhân bản ẩn chứa trong tín ngưỡng ấy chính là nền tảng tạo nên sức sống bền vững, khẳng định vị thế đặc biệt của tín ngưỡng thờ Mẫu trong dòng chảy văn hóa của quê hương Hoằng Hóa (tỉnh Thanh Hóa) nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung - ở quá khứ, hiện tại và tương lai.
                                                           

                   Tháng 3 năm 2025
                                                                                       N.X.L


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 116
 Hôm nay: 1622
 Tổng số truy cập: 14086166
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa