Hút hồn thác Ma Hao
PHẠM TẤN
Thác Ma Hao (nghĩa là thác chó ngáp) thuộc địa bàn bản Năng Cát, xã Trí Nang, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa. Sở dĩ có tên gọi là “Thác Ma Hao” vì theo truyền thuyết dân gian thì thác nước này có liên quan đến cách đặt tên của Lê Lợi trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn rút lui về vùng núi Chí Linh (tức Bù Rinh, hay còn gọi là Pù Rinh).
Từ trung tâm bản Năng Cát đến thác Ma Hao độ chừng 3km và từ đây về huyện Lang Chánh chừng 18km (nếu tính đường chim bay chỉ khoảng 8 - 9km).
Từ thành phố Thanh Hóa, theo Quốc lộ 47 đến huyện lỵ Lang Chánh là 101km, nếu đến được thác Ma Hao, phải đi thêm đoạn đường 18km nữa, tổng cộng là 119km. Đường 47 đã được đổ nhựa và nâng cấp rộng rãi nên đi lại bằng phương tiện ô tô, xe máy đều rất dễ dàng. Riêng từ đường 47 để về xã Trí Nang, chúng ta phải rẽ vào con đường liên huyện đi Bát Mọt (Thường Xuân) còn gập ghềnh khó đi (vì mới chỉ rải cấp phối và xuống cấp rất nhiều) nhưng các xe ô tô lớn, bé đều có thể đi được. Đường liên huyện rẽ về xã Trí Nang để đến Năng Cát và thác Ma Hao lại càng khó đi hơn nữa do đường mới mở, rất gập ghềnh, khúc khuỷu. Vì vậy, muốn phát triển du lịch thác Ma Hao, việc đầu tiên phải đầu tư là làm đường để mọi phương tiện xe cơ giới đều đến được dễ dàng. Hiện tại, đường sá đi lại ở xã này còn rất nguyên thủy, chủ yếu là đi theo những lối mòn xưa. Những đoạn mới được san ở ven núi thì toàn đất đỏ, nếu gặp trời mưa thì sẽ rất lầy lội, xe cơ giới cũng khó có thể đi lại được... Từ thôn Năng Cát, theo đường rừng ở độ cao gần một ngàn mét so với mực nước biển, đến được chỗ chân thác Ma Hao chỉ vài ba ki lô mét mà ô tô u oát cũng đi mất cả tiếng đồng hồ. Hiện tại, nếu khô nắng, đi bằng xe máy để đến nơi đây là tiện nhất.
Thác Ma Hao ở bản Năng Cát, xã Trí Nang, huyện Lang Chánh nằm đúng vào khu vực của dãy núi Pù Rinh (tức núi Chí Linh mà sử sách xưa nói đến). Đây là một trong số những địa bàn hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn trong chuỗi ngày “nằm gai, nếm mật” ở rừng núi miền Tây xứ Thanh để củng cố, bảo tồn lực lượng, chờ thời cơ tấn công giặc Minh khi điều kiện cho phép. Những ngày ấy, khắp rừng cây, thác nước, suối khe, bản làng của Mường Giao Lão, Mường Bỏ, Mường Mọt... không chỗ nào là không in dấu chân của Bình Định Vương Lê Lợi và các tướng sĩ trung thành. Đi khắp vùng núi Pù Rinh này, chỗ nào cũng được nghe kể những truyền thuyết về vua Lê và nghĩa quân Lam Sơn một cách thật sinh động và ý nghĩa. Để giúp vua Lê và nghĩa quân thoát khỏi sự truy đuổi và vây ráp của kẻ thù, đồng bào Thái Lang Chánh mà trực tiếp nhất là đồng bào ở Mường Giao Lão và Mường Bơ (nay thuộc xã Trí Nang và Giao An) đã hết lòng che chở, giúp đỡ lương thực, thực phẩm. Nhờ đó mà toàn bộ Bộ Chỉ huy tối cao của cuộc khởi nghĩa, đứng đầu là Bình Định Vương Lê Lợi đã được bảo toàn nguyên vẹn, để sau “Mười năm nằm gai nếm mật” ở nơi núi rừng hiểm trở tiến xuống đánh tan bọn giặc Minh, mở ra nền thái bình cho đất nước suốt gần 4 thế kỷ (thế kỷ XV - thế kỷ XVIII).
Giờ đây, đến thăm thác Ma Hao, chúng ta sẽ được thấy một thác nước khổng lồ, nên thơ, nên nhạc ở giữa một vùng rừng núi đại ngàn nguyên thủy Pù Rinh. Chúng ta sẽ được ghé thăm và nghỉ lại ở bản Năng Cát - một bản của đồng bào Thái còn nguyên sơ với những nhà sàn đặc trưng rất đẹp, sẽ được nghe những người già trong bản tự hào kể chuyện say sưa về truyền thuyết của thác Ma Hao, về sự tích tên gọi bản Năng Cát, về vườn cam mà Lê Lợi trồng, rồi đến sự tích Pù Rinh, sự tích Chiềng Lẹn, sự tích bản Húng, bản Hiên, sự tích Huối Lấu (suối rượu) - nơi Lê Lợi đã “Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” để tỏ rõ sự đồng cam cộng khổ với binh lính và tướng sĩ trong những ngày trốn tránh sự truy đuổi của địch ở núi Chí Linh, v.v...
Về mặt lịch sử, đoạn tự thuật sau đây của vua Lê Thái Tổ trong “Lam Sơn thực lục” đã nói lên được tất cả sự khốn khó, đen tối trong những ngày ẩn náu ở Chí Linh:
“Năm Mậu Tuất
Tháng Tư mùng chín, lúc ấy giặc đem đại binh đánh phá Trẫm ở Lam Sơn. Trẫm bèn lui về đóng đồn ở Lạc Thủy, đặt mai phục để đợi. Ngày mười ba cùng tháng, quân giặc quả nhiên kéo đến, Trẫm tung phục binh xông vào trận giặc. Cháu gọi Trẫm bằng chú ruột là Lê Thạch cùng bọn Đinh Bồ, Lê Ngân, Lê Lý, Trương Lôi xông lên trước hãm trận, chém được hơn ba ngàn đầu, thu quân nhu khí giới hàng nghìn. Ngày mười sáu, bị phản thần là thằng Ái dẫn đường cho giặc, đi lối tắt lén đánh sau ta, giặc bắt được người nhà của Trẫm cùng vợ con quân lính rất nhiều. Vì vậy quân ta khí thế cùn nhụt, không còn ý chí chiến đấu nữa. Trẫm cùng đường, nguy khốn, không còn biết thế nào. Chỉ có bọn công thần là Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Xí, Lê Bí, Trương Lôi, Lê Đạp theo Trẫm ẩn náu ở núi Chí Linh, hết lương ba tháng liền. Sau quân giặc rút về dựng đồn ở Lam Sơn, thì Trẫm mới thu quân tản mát ở các nơi lại, vừa được hơn một trăm người, đến đóng ở xứ Mường Khao, núi Chí Linh, ngày ngày cùng nhau trải lòng trải dạ vỗ về quân lính, sắp xếp đội ngũ, chỉnh đốn khí giới. Quân nhu tạm đủ, lòng quân sĩ cảm kích đều nguyện tử chiến, thề không cùng sống với giặc...”(*).
Đối chiếu với “Đại Việt sử ký toàn thư” và những sách lịch sử, địa chí khác, chúng ta có thể thấy rõ nội dung cốt lõi của giai đoạn lịch sử khó khăn nhất mà nghĩa quân Lam Sơn trải qua và từ đó, chúng ta sẽ thấy rõ được tính xác thực và giá trị của các truyền thuyết nêu trên đã phản ánh một cách sinh động tinh thần, lịch sử liên quan đến Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn trong những ngày ẩn náu ở rừng núi Chí Linh.
Trong một ngày không xa, với cảnh trí đẹp đẽ nên thơ, với sự tồn tại sống động của hệ thống truyền thuyết và nội dung lịch sử phong phú, thác Ma Hao chắc chắn sẽ trở thành một địa chỉ du lịch hấp dẫn, giàu tiềm năng.
Thác Ma Hao nói riêng và hệ thống núi Pù Rinh nói chung nằm ở vùng địa hình đồi núi phía Tây của tỉnh Thanh. Đây là miền đồi núi rộng lớn nhất tỉnh bao gồm toàn bộ diện tích huyện Lang Chánh, Ngọc Lặc, Thường Xuân và lấn xuống một số diện tích của các huyện Thọ Xuân, Yên Định, Triệu Sơn.
Riêng ở huyện Lang Chánh, dãy Pù Rinh có độ cao trên 1.200m so với mực nước biển. Cấu tạo địa chất ở vùng này bao gồm các núi đá có nguồn gốc macma và các núi đá granit, riolit, porphirit cùng các loại đá trầm tích bị biến chất như đá hoa, quarzit chiếm tỷ lệ rất lớn trong toàn vùng.
Thuộc địa hình vùng cao, nên khí hậu ở vùng núi Pù Rinh hầu như quanh năm mát lạnh. Vì vậy, hệ thống cây rừng nguyên sinh ở đây phát triển rất xanh tốt và từ trước đến nay, Pù Rinh vẫn được xếp là một trong số những vùng có nguồn lâm sản lớn nhất tỉnh.
Cũng do có địa hình núi cao và có cấu tạo địa chất như vừa nêu, nên sông suối ở đây đã tạo ra những thung lũng khá hiểm trở với nhiều vách đá dựng đứng và thác nước có giá trị cả về thủy điện và cảnh quan.
Có đến vùng núi rừng ở khu vực Ma Hao - Năng Cát - Pù Rinh, chúng ta mới có thể cảm nhận rõ ràng về sự bào mòn kinh khủng của tự nhiên. Do sự bào mòn của nước mà từ thác Ma Hao - ngọn nguồn của sông Cảy đổ xuống, chỗ nào chúng ta cũng thấy những khối đá granit, riolit, porphirit, hoặc đá hoa và qurzit lộ thiên nhiều hình nhiều vẻ với đủ loại hình thù kỳ thú được xếp dăng hàng theo lòng sông, lòng suối và cả trên bờ: chỗ thì như đàn voi đang đi xuống núi, chỗ thì chồng xếp như hòn Trống Mái, chỗ thì như những quả trứng khổng lồ to nhỏ khác nhau; chỗ thì bằng phẳng, vuông vắn như tấm phản, chỗ lại cao thấp, lồi lõm như hòn non bộ, v.v...
Về mùa khô, theo đường suối chảy để lên đến thác Ma Hao, chúng ta sẽ được leo trèo, nhảy cóc quanh co từ hòn đá này sang hòn đá khác, lúc thì sang trái, lúc thì sang phải một cách thú vị. Chỗ nào trống thấp đều là đường nước chảy. Nhưng nhiều chỗ, nước lại chảy tràn trên mặt đá. Còn chỗ trũng sâu chỉ thấy toàn sỏi và cát.
Từ chân thác đi lên, chúng ta phải vượt qua tới hơn mười tầng thác mới tới đỉnh và khoảng cách chỉ có trên, dưới 2.000m. Trong các tầng thác đó, có chỗ thì dài một vài trăm mét, có chỗ chỉ chục mét trở xuống và cứ sau mỗi tầng thác, nước lại đổ ào xuống trắng xóa. Còn chỗ thấp, bằng, nước lại chảy tràn trong vắt như pha lê và khi đụng vật cản lại tung bọt trắng như ánh bạc. Vượt qua hơn mười tầng thác một cách dễ dàng, chúng ta sẽ bắt gặp tầng thác cao lớn và rộng nhất. Đó là thác Ma Hao - ngọn nguồn của con sông Cảy (đổ nước vào sông Âm và từ sông Âm lại đổ nước về sông Chu, ở phía trên Bái Thượng).
Đến chân thác Ma Hao, nhìn ngắm một cách bao quát, chúng ta mới cảm nhận một cách đầy đủ về sự bao la, hùng vĩ của một vùng cảnh quan đặc biệt, nên thơ do thiên nhiên ban tặng. Từ chân đến đỉnh của tầng thác này cao tới hơn một trăm mét và rộng cũng khoảng hai trăm mét. Trèo lên “cửa gió” ở lưng chừng thác để nhìn ngọn thác và cảnh trí xung quanh, chúng ta có cảm tưởng như lạc vào vùng tiên cảnh. Phía trên thác Ma Hao là đỉnh Pù Rinh cao vút có mây mù che phủ, còn xung quanh là núi rừng đại ngàn, xanh biếc bao trùm. Ở dưới chân thác là hồ nước trong xanh rất rộng và sâu. Mùa hè, nếu được tắm mình và bơi lội trên hồ nước chảy đặc biệt này thì thú vị vô cùng.
Đứng ở “cửa gió” chân thác, chúng ta sẽ được nghe đầy đủ âm thanh của nhạc rừng, đó là tiếng ào ào, róc rách của thác nước, tiếng hót của chim, thú và tiếng rì rào của gió, tất cả hòa tấu và cộng hưởng thành một âm thanh đặc biệt.
Có đứng ở “cửa gió” chân thác, chúng ta mới thấm thía về sự tích “chó ngáp” là chí lý và đúng như thế nào! Với sự rộng lớn, bao la của thác nước, “tu ma” nào mà chẳng “háo” (chó nào mà chẳng sợ)... “Cửa gió” chính là một hốc đá thông nhau ở phía trên chân thác khoảng hai chục mét. Nếu trời oi bức, ngồi ở phía chân cửa gió thì sẽ được “quạt” mát bằng một hệ thống gió kèm bụi nước vô cùng khoan khoái.
Thác Ma Hao rất cao, vừa cheo leo, vừa dốc đứng, chỉ có người địa phương sành sỏi, khỏe mạnh mới có thể leo trèo lên đỉnh được, còn hầu hết mọi người đến đây chỉ được nhìn, được ngắm đã có thể thỏa chí tang bồng và đắm say hết cỡ. Cho nên, trong cuộc hành trình du lịch thác Ma Hao, leo được đến “cửa gió”, du khách đã có thể mãn nguyện.
Sau khi đi thăm thác và chơi thác xong, chúng ta sẽ đi du lịch xung quanh khu vực rừng núi nguyên sinh (mà bây giờ gọi là rừng phòng hộ) ở chân núi Pù Rinh thì sẽ thấy nơi “rừng vàng” này vẫn còn tồn giữ được vô số loài gỗ quý hiếm như: lim, lát, dổi, vàng tâm, pơ mu, sến, táu, v.v... và đặc biệt, ở đây còn có nhiều loại cây dược liệu rất quý như cây quế mà sử sách đã chép đến, cây lá khôi chữa dạ dày rất hiệu nghiệm. Về thú xưa kia có đủ loại thú lớn, thú bé. Hiện tại vẫn còn hổ, báo, hoẵng, hươu, nai, chồn, sóc, nhím, v.v…
Chỉ trong bán kính năm cây số, chúng ta có thể đến thăm núi và hòn đá Lê Lợi nằm nghỉ và làm việc thời “nằm gai nếm mật” ở Pù Rinh (hòn đá này chỉ rộng bằng hai cái chiếu và cao 7m mà nhân dân vẫn gọi là hòn đá Vua Lê), và đặc biệt là đến thăm Huối Lấu (tức suối rượu) - nơi mà theo truyền thuyết địa phương, Lê Lợi đã cùng tướng sĩ và binh lính thề nguyền sẽ sống chết cùng nhau, v.v....
Có một điều rất may, khi đi tham quan thác Ma Hao, cả lúc đi và lúc về, chúng ta đều được dừng chân ở bản làng Năng Cát của đồng bào Thái. Nếu nghỉ lại qua đêm để tiếp tục cuộc hành trình du lịch vùng rừng núi Pù Rinh thì du khách sẽ được thưởng thức và chiêm ngưỡng nhiều điều thú vị khác. Có thể nói, do ở vào vùng địa hình cao và cũng khá hiểm trở, nên bản làng người Thái ở Năng Cát còn rất nguyên sơ. Hiện tại, cả bản đều còn ở nhà sàn bằng gỗ, đa số là nhà cũ lợp bằng lá rừng, một số ít đã được lợp bằng ngói. Đây là những ngôi nhà sàn mang tính chất đặc trưng điển hình của người Thái đen Lang Chánh. Về góc độ dân tộc học thì những ngôi nhà sàn này hoàn toàn khác với cấu trúc nhà sàn của đồng bào Mường chứ không phải kiểu nhà sàn hỗn hợp Mường - Thái như một vài nơi khác.
Nếu ở lại Năng Cát, chúng ta sẽ được đến khu đất “Vườn cam của Lê Lợi” trồng những ngày ẩn náu tại đây. Sau khi Lê Lợi mất, đồng bào Thái ở bản Năng Cát đã dựng lên một ngôi đền thờ Lê Thái Tổ để tỏ lòng biết ơn. Hiện nay, nền móng và dấu tích của đền thờ xưa vẫn còn và chắc chắn sẽ được phục hồi trong thời gian gần đây.
Đến Năng Cát, chúng ta sẽ được thưởng thức một số đặc sản nổi tiếng như gà, vịt và măng rừng cùng rượu siêu, rượu cần rất thơm và có hậu. Cũng tại đây, để hồi tưởng về cảnh sinh hoạt của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn ngày ấy, chúng ta sẽ được thưởng thức món “cơm lam, gà thui” đặc sắc. Bên ánh lửa nhà sàn, du khách vừa uống rượu cần, vừa được nghe người Thái Năng Cát hát khắp và khua luống một cách thật say sưa, nồng ấm...
Có thể nói, từ thác Ma Hao đến rừng núi, bản làng Năng Cát - Pù Rinh (Trí Nang - Lang Chánh), tất cả đều xứng đáng trở thành một địa chỉ du lịch cảnh quan, sinh thái hấp dẫn mọi người. Trong thời gian không xa, với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, đường sá và cơ sở vật chất được đầu tư hợp lý thì việc khai thác, phát huy di tích - thắng cảnh Ma Hao sẽ mang lại nguồn lợi đáng kể cho địa phương.
Thác Ma Hao là một trong số những thắng cảnh tự nhiên kỳ thú, độc đáo và đẹp nhất ở tỉnh Thanh Hóa. Thắng cảnh này không những có giá trị về mặt cảnh quan môi trường mà còn có giá trị cả về mặt lịch sử - văn hóa, chắc chắn sẽ trở thành vùng du lịch cảnh quan, sinh thái hấp dẫn mọi du khách gần xa.
P.T
(*): Lam Sơn thực lục. Bản nhà Lê Sát. Ty Văn hóa XB-1976, tr. 243.