Người bắt sống tướng Đờ cát Tơ ri ngày ấy - HOÀNG TRỌNG CƯỜNG
Bao lâu nay, nói đến người bắt tướng Đờ Cát ở Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954, chúng ta chỉ mới biết ba người là Tạ Quốc Luật, Nguyễn Văn Nhỏ và Hoàng Đăng Vinh.
Trong hồi ký về những ngày tháng lịch sử ấy, ông Tạ Quốc Luật viết rất kỹ về năm người (trong đó có ông) đánh trận cuối cùng vào hầm Đờ Cát và bắt tướng Đờ Cát.
.jpg)
Sau này ba người trong số họ đã trở thành quen thuộc với lịch sử, với cả nước. Còn lại hai người kia bây giờ ở đâu, sống chết ra sao? Ông vẫn khắc khoải, băn khoăn: “Hiếu, Lam bây giờ ở đâu? Chuyện gì xảy ra với họ…”
Nỗi đây dứt ấy của ông Luật cũng là nỗi băn khoăn của một cựu chiến binh, chiến sĩ Điện Biên Phủ năm xưa, đại tá Hoàng Đăng Vinh. Vì vậy, trong dịp kỷ niệm 45 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 - 1999) ông Vinh đã làm một cuộc “đi tìm đồng đội”. May mắn thay, đã được biết nhân vật của lịch sử Đào Văn Hiếu hiện đang sinh sống ở Nga Sơn.
*
Theo sự hướng dẫn của anh Hùng - Thường trực Hội cựu chiến binh huyện Nga Sơn, tôi về xã Nga Hưng, một xã thuần nông, cách thị trấn huyện lỵ huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa chừng bốn ki lô mét về phía đông để tìm gặp ông Đào Văn Hiếu, một trong năm chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam đã bắt sống tướng Đờ Cát cùng Bộ Tham mưu của ông ta tại Điện Biên Phủ, tháng 5 năm 1954, người “mất tích” suốt 45 năm trời kể từ sau ngày Điện Biên lịch sử ấy.
Ông Hiếu tiếp tôi trong căn nhà cấp bốn, ba gian, dựng trên khu đất rộng, chừng một sào Trung bộ. Cũng một mảnh vườn nho nhỏ trồng rau, một cái ao để rửa ráy và lấy nước tưới, cũng chuồng gà, chuồng lợn, chuồng bò… Đầy đủ cơ ngơi của một nông dân, nhưng là một cơ ngơi thường thường, có vẻ như chủ nhân nó chỉ đủ ăn. Đồ đạc trong nhà càng chứng minh điều đó, đơn sơ, đạm bạc hầu như chẳng có vật gì đáng giá. Đã ở cái tuổi “xưa nay hiếm” nhưng ông vẫn khỏe mạnh trông có phần trẻ hơn tuổi tác. Ông nói chuyện dè dặt, rất ít nói về mình, về hoàn cảnh của gia đình, mà nói về đồng đội, về thời quân ngũ. Dấu ấn của ký ức khiến khuôn mặt nhân hậu, đôi chút khắc khổ của ông rạng rỡ hẳn.
.jpg)
Sinh năm 1932 tại xóm Bể, làng Mại, xã Tân Đức, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đào Văn Hiếu vào tuổi trưởng thành cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu. Năm 1948 vào du kích, năm 1950 nhập ngũ. Vào chiến dịch Điện Biên, Đào Văn Hiếu ở đại đội 360, tiểu đoàn 130, trung đoàn 209, sư đoàn 312. Đại đội có 120 người. Ngay trận đánh mở màn vào Him Lam đã thương vong mất năm chục người. Suốt chiến dịch nhiều lần đại đội được bổ sung thêm quân xong đến ngày 7 tháng 5, đại đội chỉ còn hơn hai chục người. Chiều 7 tháng 5, đơn vị xung phong qua cầu Mường Thanh. Quân Pháp chống trả quyết liệt. Sau khi tiêu diệt khẩu đại liên và khẩu pháo chấn giữ đầu cầu, năm người vượt qua cầu, tiến vào khu trung tâm là: đại đội trưởng Tạ Quốc Luật (quê Thái Bình), Bùi Văn Nhỏ (quê Nghệ An), Đào Văn Hiếu (quê Thanh Hóa), Hoàng Đăng Vinh (quê Hải Hưng) và anh Lam (quê Nghệ An). Lúc bấy giờ khói bụi mù mịt, các anh chỉ thấy nhấp nhô hầm hào, lô cốt, không ai biết hầm Đờ Cát ở đâu. Đột nhiên từ ngách hào trước mặt các anh, một tên lính Dõng xuất hiện giơ tay đầu hàng. Anh Luật quát: “Hầm Đờ Cát ở đâu?” Tên lính chỉ vào cái ụ đất cao được bao bọc bởi dây kẽm gai. Năm người vừa chạy vừa tận dụng các mô đất tránh đạn đang bắn như mưa xông tới. Phát hiện ra hầm có 2 cửa, anh Luật phân công Hiếu và Lam vào một cửa còn ba người vào một cửa. Từ hai đầu các anh đã đồng loạt xông vào bắt Đờ Cát tuyên bố đầu hàng. Khi năm anh em áp giải Đờ Cát và Bộ tham mưu của ông ta, ba mươi tư người đến cầu Mường Thanh thì mới gặp quân ta đi vào, họ bàn giao tù binh cho sư đoàn trưởng Thăng Bình rồi quay lại hầm Đờ Cát múc nước uống một trận thỏa thuê, ôm lấy nhau reo hò mừng chiến thắng. Ngay sau đó Hiếu được kết nạp đảng.
Ông Hiếu kể lại một kỷ niệm vui vui. ấy là việc gặp lại Đờ Cát. Ba ngày sau chiến thắng, sư đoàn 312 cử ba người có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, thay mặt sư đoàn đi dự Hội nghị mừng công tại Mường Thanh là anh Luật, Hiếu và anh Lam. Ngày thứ tư sau khi đến Mường Thanh, buổi sáng hôm đó các anh đi ra suối đánh răng, rửa mặt, dọc đường đi có rất nhiều tù binh Pháp đang ngồi bó gối hai bên đường, đi qua toán tù binh chừng vài chục thước, chợt giữa hàng tù binh một người đứng phắt dậy, giơ hai tay lên vành mũ chào các anh. Người ấy chính là Đờ Cát. Đờ Cát nguời là rất trọng danh dự nhà binh, ông ta nhận ra những người đã bắt mình nên chào để thể hiện sự khâm phục.
Kỷ niệm nhỏ nhưng quả thật không thể nào quên được.
Ông bùi ngùi: Thời ấy anh em thương nhau lắm, thế nhưng sau khi hòa bình lập lại 1954 thì tản mát mỗi người một ngả. Anh Luật chuyển về Thông tin, Vinh cậu em út nhỏ tuổi nhất (mười tám tuổi) sang công binh, anh Nhỏ đi xây dựng kinh tế, Hiếu và Lam chuyển sang trung đoàn 141 và từ đây mất liên lạc với nhau.
Năm 1958 Đào Văn Hiếu đi học hạ sĩ quan, sau khi tốt nghiệp ông ở lại trường Hạ sĩ quan của sư đoàn 312 làm cán bộ huấn luyện. Năm 1966 ông và ông Lam chuyển về sư đoàn 338 và đi B. Đơn vị ông lúc ấy thuộc diện “ăn cơm Bắc đánh giặc Nam”; Ông Lam là Tham mưu trưởng tiểu đoàn, Hiếu là Đại đội trưởng. Năm 1969 ông Hiếu bị thương ra Bắc điều trị và từ đây mất liên lạc hoàn toàn với ông Lam. Cho đến năm 1972, sau mười năm đeo lon trung úy ông xin về hưu vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn và cũng vì sức khỏe kém do hai lần bị thương.
Về hưu nhưng chưa kịp nghỉ ngơi, ông đã được địa phương giao làm đội trưởng sản xuất và bí thư chi bộ. Thế là ông vừa phải gánh “tù và hàng tổng” vừa làm lụng cật lực để nuôi vợ con.
Ông cưới vợ năm 1959, vợ ông là bà Trịnh Thị Cống người cùng xã kém ông bảy tuổi, là một người khỏe mạnh, đảm đang. Vậy nhưng, thật long đong, sau khi sinh đứa con thứ hai năm 1965, đột nhiên bà bị mắc một chứng bệnh quái ác. Khắp người bà nổi mụn đỏ, lở loét, chảy nước có mùi rất khó chịu, ông đưa bà ra đơn vị vừa chữa bệnh bằng thuốc tây vừa nhờ dân địa phương tìm thuốc nam gia truyền để điều trị. Khỏi được ở ngoài thì bệnh nhiễm vào nội tạng, đã bao lần bà chết hụt nếu không được tiêm kịp thời một thứ thuốc độc bảng A là Adrenalin. Kỳ quái nhất là thứ thuốc ấy người khỏe mạnh bình thường chỉ cần tiêm một ống một lần cũng có thể gây chết người, trong khi đó bà phải tiêm liên tục mỗi lần lên cơn, thậm chí năm ống mỗi ngày. Hàng vạn ống thuốc ấy đã vào trong người bà trong mấy chục năm qua. Thứ thuốc độc dược giữ mạng sống cho bà là thứ trước đây cực hiếm và đắt. Lúc đó nông dân làm ruộng hợp tác xã cả một thời gian rất dài luôn thiếu đói, có được cơm no còn khó huống hồ chữa bệnh. Vì vậy, về đến nhà là ông làm quần quật. Ông tổ chức được chục anh em trong làng, ngày làm ruộng, tối đến lại vác đồ nghề ra biển cách nhà 4 ki lô mét để đánh cá tôm. Sáng về, mỗi người cũng được 10 cân cá. Bán đi, lấy tiền mua thuốc cho vợ. Cứ thế, dầm dãi ngày tháng năm qua. May mà trời lại cho ông sức khỏe để gánh vác gia đình vợ ốm đau và sáu đứa con thơ dại.
Từ những năm 1990, cơ chế có dễ thở hơn, các con ông cũng đã lớn, đỡ đần cho ông bà công việc đồng áng được. Ông lao vào chăn nuôi. Bình quân mỗi năm ông xuất chuồng bốn tạ lợn thịt và vài lứa lợn giống. Tưởng đã có thể dành dụm được tí chút thì đùng một cái, người con trai lớn của ông là Đào Văn Hạnh, nhập ngũ năm 1984, được kết nạp đảng trong quân đội, năm 1988 xuất ngũ về địa phương thay cha làm bí thư chi bộ, đang khỏe, bị sỏi mật phải mổ ở bệnh viện tỉnh. Chưa được bao lâu, năm 1994 tái phát, trầm trọng hơn. Ông vét hết vốn liếng và vay mượn thêm được tất cả bốn chỉ vàng và ba triệu rưỡi tiền mặt, hai cha con ôm nhau ra Hà Nội. Ông nhờ người thân xin cho con ông được mổ ở bệnh viện 108. Toàn bộ cuộc điều trị hết 11 triệu đồng. Phải ba lần về quê vay tiền và khi con ông khỏi bệnh, ba năm sau ông mới trả hết nợ.
Ông cứ lặng thầm vật lộn với số phận như vậy ở chốn quê nhà, coi việc mình bắt tướng Đờ Cát chỉ là một kỷ niệm của quá khứ. Cho đến năm 1999, lúc này Tạ Quốc Luật và Nguyễn Văn Nhỏ đã mất, ông Hoàng Đăng Vinh đi tìm đồng đội bằng bài viết: “Hiếu, Lam bây giờ ở đâu”, đăng trên báo Tiền Phong tháng 5-1999, với lời nhắn: “Ai biết về hai người ấy xin liên hệ báo tin về báo Tiền Phong…”
Trước đó, ở Nga Sơn, có một cựu chiến binh nói rằng, ông có xem ở bảo tàng Quân đội thấy có tấm ảnh người bắt tướng Đờ Cát đúng là ông Hiếu làng mình nhưng duới tấm ảnh lại đề tên là: “Đào Văn Hiến, xã Nga Đức, Nga Sơn, Thanh Hóa”. Ông Hiếu nghe và chỉ cười tủm tỉm không nói gì.
Khi bài báo của ông Vinh phát hành thì Thường trực Hội cựu chiến binh huyện Nga Sơn là ông Nguyễn Văn Hùng đọc được. Ông Bèn cất công ra bảo tàng Quân đội xem cụ thể tấm ảnh. Ông xác định đúng là ông Hiếu quê mình vì ông biết từ năm 1960 xã Nga Đức chia làm ba xã, làng của ông Hiếu thuộc địa phận xã Nga Hưng. Còn chữ Hiếu và Hiến chẳng qua chỉ do đọc nhầm chữ “U” thành chữ “N”. Ông bèn viết ngay bài “Hiếu vẫn còn đây” gửi cho báo Tiền Phong.
Tổng biên tập báo Tiền Phong gửi điện về Nga Sơn mời ông Hiếu ra tòa soạn để gặp gỡ. Lúc ấy đại tá Hoàng Đăng Vinh đang nghỉ hưu ở Hà Bắc, đọc báo biết tin cũng đánh điện vào mời ông Hiếu ra nhà chơi.
Ông Hiếu chần chừ mãi vì một cuộc đi chơi ra Hà Nội hao tốn kém so với một hoàn cảnh kinh tế vừa trải qua “cơn bão” dài dặc của ông. Nhưng mọi người xung quanh xúm vào động viên, phần thì muốn gặp lại xem cái thằng “Vinh lì” ngày xưa bây giờ ra sao nên ông cũng chắt chiu hầu bao đánh đường ra Hà Nội. Trưa ngày 8-8-1999 đến Hà Nội, ông nghỉ ở nhà một người quen và sáng hôm sau đi Bắc Ninh thăm ông Vinh.
Cánh nhà báo hay tin có cuộc hội ngộ của hai nhân vật đặc biệt này, tìm đến nhà ông Vinh và họ đã không hết ngỡ ngàng trước hai ông già, một to béo (ông Vinh), một cao, gầy, đen (ông Hiếu) vừa trông thấy nhau đã la lên “Hiếu điếc”; “Vinh lì” ôm chầm lấy nhau mà lắc, mà cười ha hả… mà nước mắt giàn giụa... Bốn muơi năm giờ đây mới gặp lại, 45 năm, quãng thời gian dằng dặc đã đi qua cùng với bao thăng trầm của mỗi cuộc đời. Hai người, ông Hiếu và ông Vinh bùi ngùi ôn lại kỷ niệm xưa cùng nhau nhắc nhớ về đồng đội. Cùng chạnh lòng… Hiếu thì có mặt đây rồi còn Lam bây giờ vẫn mịt mù bóng chim tăm cá...
Cho đến tận bây giờ ông Hiếu vẫn đau đáu nỗi niềm nhớ ông Lam. Hai người chia tay bên dòng sông Bến Hải mù trời bom đạn năm ấy rồi bặt tin nhau. Không biết bây giờ ông Lam sống chết ra sao? Ông Hiếu cũng đã nhờ nhiều người dò hỏi nhưng không biết ông Lam ở làng nào, xã nào. Ông chỉ biết ông Lam quê ở Nghệ Tĩnh.
Ôi! Người chiến binh già. Nghị lực nào đã khiến ông vượt lên tất cả khó khăn để nuôi vợ, nuôi sáu người con bốn gái, hai trai trưởng thành. Bốn người con gái của ông đều làm ruộng và đã thành gia thất. Ông kỳ vọng nhiều nhất vào cậu con út có thể thoát ly, nhưng người con ấy bốn năm trong quân ngũ thì ba năm là chiến sĩ quyết thắng nhưng hết nghĩa vụ cũng ra quân về quê.
Có rất nhiều người sau khi biết hoàn cảnh của ông đã áy náy: Lịch sử gắn với những sự kiện, thời điểm, nhân vật, người cắm cờ ở Dinh Độc Lập ngày 30 tháng 4 năm 1975, người bay vào vũ trụ, người bắt sống tướng Đờ Cát năm 1954… nên chăng cần trả cho ông một sự bù đắp thỏa đáng.
Còn ông, vẫn cần mẫn với bờ tre, đám ruộng. Hai ông bà nương tựa vào nhau trong căn nhà đơn sơ, vui với cháu con với xóm giềng, bạn bè.
Tôi chia tay với ông khi mặt trời tháng tư đã có phần đứng bóng. Bà đi chăn bò vẫn chưa về. Nắm bàn tay chai sạn của ông tôi thấy nao nao. Ông giống như cha tôi, như bao người nông dân Việt Nam khác đã: “Xả hết mình khi nước gặp tai ương. Rồi thanh thản trở về với ruộng. Sống lặng yên như cây cỏ trong vườn!” ấm áp và bình yên đến lạ.
Thanh Hóa, tháng 4-2002 - H.T.C