Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Truyện ngắn   /   Đôi cánh chim hồng (Truyện ngắn dự thi)
Đôi cánh chim hồng (Truyện ngắn dự thi)

MAI XUÂN THẮNG 

Đôi cánh chim hồng

Truyện ngắn dự thi

Vọng lâu gối đầu lên ngực núi, phía trước là dòng Hoàng giang mềm mại như sợi chỉ viền quanh căn cứ. Vành trăng hạ huyền mảnh mai rắc những ánh vàng non, đủ để nhìn rõ từng tốp lính canh cách nhau chừng độ mươi trượng, giáo mác chỉnh tề đang thực thi nhiệm vụ. Thảng hoặc có tiếng chim rừng vút ra từ vách núi cất lên thanh âm lảnh lót, đơn côi rồi lại tan biến vào hư không, vô hình vô ảnh. Hoàng Nghiêu đêm nay thật yên tĩnh!
Nguyễn Chích lặng lẽ nhìn lá đại kì đang tung bay dưới làn mưa bụi đầu xuân, miên man nghĩ tới năm kế sách mà vị phó tướng vừa đầu quân nêu trong cuộc đàm đạo chiều nay. Một là, phải giương cao ngọn cờ nhân nghĩa để thu phục nhân tâm, hiệu triệu thiên hạ. Hai là, phải chuẩn bị đầy đủ quân lương, vũ khí trang bị đảm bảo cho chiến đấu lâu dài. Xây dựng căn cứ Hoàng Nghiêu thành pháo đài vững chắc làm điểm tựa, từ đó mở rộng địa bàn hoạt động. Ba là, chiêu nạp hiền tài, mở rộng lực lượng là điều tối quan trọng. Xưa nay, mấy ai thành đại sự mà không có trợ thủ giỏi? Bên cạnh đó nghĩa quân phải được thao luyện chuyên cần, có tính kỉ luật cao độ, thưởng phạt phải công bằng, nghiêm minh, tướng sĩ phải trên dưới một lòng, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, mới tạo nên sức mạnh tổng hợp. Bốn là, hiện nay, Tổ quốc đang cơn nguy biến, quân cường địch đang ngày đêm cướp phá, bóc lột muôn dân, lòng người Việt đang căm hận giặc Minh tận xương tủy, tất yếu sẽ có nhiều cuộc khởi nghĩa nổi lên. Tuy vậy, một cơn gió nhỏ không thể quét sạch lá khô, một đốm lửa lẻ loi sẽ nhanh chóng tàn lụi. Cần phải liên kết với anh hùng thiên hạ. Và cuối cùng, quan trọng nhất là tất cả hành động phải vì đại cuộc, vì nghĩa lớn đánh đuổi giặc Minh, giải phóng đất nước. 
Nguyễn Chích gật gật đầu ra chiều vô cùng tâm đắc. Lại nhớ đến những hành động của Đặng Thanh. Nào là “dũng chẳng thua Thường Sơn Triệu Tử Long, trí không kém gì Gia Cát Lượng”; rồi “Làm trai thời loạn phải xông pha nơi hòn tên mũi đạn, báo đền nợ nước, rửa sạch thù nhà”,... Dù có phần ngông nghênh, cao ngạo nhưng đầy hùng tâm tráng chí. Và nhất là những ngón đòn tuyệt kĩ, thân pháp ảo diệu của Đặng Thanh khi tỉ võ, thi tài cùng chúng tướng, rõ ràng là những minh chứng sống động, hùng hồn không thể phủ nhận, và rằng đó không thể là một kẻ hủ nho chỉ biết múa mép, khua môi. Tận mục sở thị rồi suy ngẫm, Nguyễn Chích càng thêm nể trọng, tin tưởng. Không ngờ một người tuổi trẻ tưởng như trói gà không chặt lại có sức mạnh bạt vía quần hùng và tài trí, cơ mưu sâu sắc, bao trùm nhường ấy. 
Đặng Thanh được Nguyễn Chích phong làm phó tướng kiêm mưu sĩ, hoạch định toàn bộ hoạt động của nghĩa quân. Nguyễn Chích hoàn toàn ủng hộ kế sách năm điểm. Lập tức cho khắc in bản điều lệnh cấp phát đến từng trại quân, quán triệt từ cấp chỉ huy đến từng người lính phải thực hiện nghiêm túc. Rồi tiến hành sửa sang lại thành quách, bố trí, điều động thêm binh lực cho những nơi hiểm yếu và tăng cường huấn luyện kĩ, chiến thuật. Không khí trong quân trở nên rất khẩn trương. Trên bộ đâu đâu cũng thấy lính tráng múa đao, luyện kiếm, tập quyền, cưỡi ngựa bắn cung. Trên sông Hoàng, thuyền bè đội hình đội ngũ tề chỉnh, lập thành trận thế, lúc tiến lui, khi ra vào đều theo đúng phép tắc. 
Trời Ái Châu hôm nay đẹp quá! Những phiến mây trắng vô tư lự lững lờ trôi. Nắng cuối xuân rải những ánh vàng mơ lên từng vạt cây rừng. Non Hoàng, non Nghiêu như được khoác lên tấm áo mới tràn đầy sức sống. Nguyễn Chích đứng trên mặt thành, dáng vẻ bồn chồn, dõi mắt về hướng Nam. Chợt giữa tầng thinh không trong vắt, một đôi chim câu xuất hiện. Ban đầu chúng chỉ như hai dấu chấm đen điểm trên nền trời. Thoắt cái đã hiện nguyên hình, ríu rít sà vào lòng bàn tay vị chủ tướng. Lấy lá thư được buộc khéo léo ở chân phải của chú bồ câu trống, Nguyễn Chích đọc vội vàng. Khuôn mặt cương nghị nở một nụ cười thỏa nguyện.
Thực hiện theo kế sách thứ tư, Đặng Thanh xin Nguyễn Chích cho đi liên hệ với các nhóm khởi nghĩa xứ Nghệ. Thấm thoắt đã nửa tuần trăng. Thời gian không dài, nhưng với Nguyễn Chích tưởng như bằng cả năm trời đằng đẵng. Không phải lo lắng quá cho sự an nguy hay sự thành bại trong chuyến đi của Đặng Thanh. Bởi ngài vô cùng tin tưởng vào tài năng, sự khéo léo chu toàn và cả sự hoạt ngôn của vị phó tướng. Mà chỉ là không hiểu căn nguyên vì đâu? Từ buổi sáng đầu xuân gặp gỡ, hình ảnh người tướng trẻ, tài năng xuất chúng, có đôi bàn tay nhỏ nhắn, thon thả, gương mặt thanh tú, đôi mắt to, tròn vừa sâu thẳm, mơ màng lại rực lên thần thái tươi sáng, mạnh mẽ khác thường ấy, đã ăn sâu vào tâm tưởng. Mấy ngày Đặng Thanh đi xa, lạ kì thay, lại là bấy nhiêu ngày chủ tướng bồi hồi, nhung nhớ. Hôm nay, tin thư cho biết, Đặng Thanh đã thuyết phục được hai nhóm khởi nghĩa ở mạn Diễn Châu theo về và xin ý kiến việc tấn công thành Quỳnh Lưu. Thời cơ tốt đã tới, có đâu lại bỏ qua? Ngài liền dẫn ba đạo tinh binh tiến xuống Tĩnh Gia hội quân cùng Đặng Thanh.
Phố Còng đêm buồn như ánh mắt người cô phụ. Trong một khách điếm tuềnh toàng, mấy người tùy tùng đã say ngủ, Đặng Thanh vẫn còn thao thức. Chàng ngồi dậy, nhẹ nhàng mở cửa sổ, hướng ánh mắt về phía Hoàng Nghiêu, nghe lòng bâng lâng lạ. Từ ngày gia nhập nghĩa quân, chàng như một con người khác, chín chắn, trưởng thành lên rất nhiều. Tất cả nhờ sự tin tưởng, rộng lòng của vị chủ tướng. Nguyễn Chích đúng là vị anh hùng mà thiên hạ đã ngợi ca, truyền tụng. Một thứ tình cảm thật lạ cứ âm thầm lan tỏa, nhiều lúc cuộn lên dữ dội chiếm cứ, rợn ngợp tâm hồn thanh tân, trai trẻ. Nhưng nghĩ đến ân sư, nghĩ đến thân phận, chàng luôn phải dằn lòng. Ngồi xuống vận công, công phu hàm dưỡng suốt mười năm tưởng đã đến mức lô hỏa thuần thanh cũng đành bất lực. Dòng khí luân chuyển chưa được nửa đường đã bị luồng cảm xúc mạnh mẽ như cơn hồng thủy kia chặn lại. Chàng uể oải đứng lên, bước tới tựa vào bao lơn. Trăng đã lên tự khi nào, chị Hằng hào phóng rải những ánh vàng mỏng manh lên mấy nếp nhà gianh xa xa đang thiêm thiếp ngủ. Dưới trăng, dòng Lạch Bạng lặng lờ trôi về xuôi mơ màng như mái tóc người con gái muôn đời trẻ mãi. Lấy tấm binh phù Nguyễn Chích đã trao, ấp vào lòng, hình ảnh vị chiến tướng anh hùng hiện lên lồng lộng, hiên ngang, ánh mắt vừa uy nghiêm vừa trìu mến yêu thương, xoáy vào sâu thẳm tâm can khiến lòng chàng càng thêm rộn rạo.
Trống đã điểm canh năm, những cơn gió mặn mòi từ biển thổi lên mang theo hơi lạnh cuối mùa, mấy chiếc đèn lồng leo lét ngoài hiên phụt tắt, chàng thoáng rùng mình, lặng lẽ lên giường cuộn người trong tấm chăn mỏng. Thôi đành, cưỡng cầu làm chi, “vạn sự tùy duyên”! Chàng tự dỗ mình.
Hạ trại xong, Nguyễn Chích cho gọi các tướng đến bàn cách đánh thành. Dương Trắc - bộ quân tiên phong - nhanh nhẹn bước ra, tiếng vang như sấm:
- Quỳnh Lưu không phải tòa thành kiên cố, ta cứ tấn công bốn mặt ắt phá được.
Đặng Thanh đứng dậy, đưa mắt nhìn Nguyễn Chích rồi ung dung lên tiếng:
- Khởi bẩm chúa công! Lời của Dương tướng quân không phải là không có lí. Nhưng nếu đánh trực diện như vậy, e quân ta phải chịu nhiều thương vong. Với lại, nếu ta không dứt điểm nhanh, thì quân địch sẽ từ thành Diễn Châu kéo ra cứu viện, khi đó khó lại càng thêm khó. Binh pháp có câu: “Vào hang cọp không bằng dụ cọp ra khỏi hang”. Tôi có một kế thế này. Phía Tây thành Quỳnh Lưu chừng mươi dặm, có con đường xuyên qua khu vực đồi núi, cây cối rậm rạp, chúa công dẫn hai trăm quân mai phục bên tả, tôi dẫn hai trăm quân mai phục bên hữu. Dương tướng quân dẫn một trăm kị binh tới trước cổng Tây thành khiêu chiến. Tướng giữ thành là Mã Hoạch vốn nổi tiếng gian tham lại cậy có sức mạnh nên ngông cuồng, xem thường kẻ khác tất sẽ dẫn quân ra. Dương tướng quân không nên ham đánh, cốt dụ quân địch đuổi theo. Khi nghe pháo lệnh hãy đem quân quay lại hợp sức chiến đấu. Còn hai cánh quân Nghệ An, hãy chọn điểm ém quân cách thành chừng năm, sáu dặm, khi có hiệu lệnh thì chia quân làm ba đội, phô trương thanh thế, rồi phối hợp tấn công vào các cổng thành Đông, Nam, Bắc. Nếu làm như thế, ắt ta sẽ phá được thành Quỳnh Lưu dễ dàng.
Nguyễn Chích nghe xong, cả mừng:
- Lời phó tướng rất hợp ý ta!
Nói rồi, hạ lệnh cho ba quân chuẩn bị hành sự.
Đúng như dự đoán của Đặng Thanh, sáng hôm sau, Mã Hoạch nổi cơn thịnh nộ, dẫn ba trăm quân mở cổng thành ra đánh Dương Trắc. Chưa đầy năm hiệp, Trắc vờ thua, quay ngựa bỏ chạy. Mã Hoạch nóng máu xua quân đuổi theo. Chợt tiếng pháo lệnh vang lên, hai cánh quân ào ạt đổ ra, quân Dương Trắc quay lại. Mã Hoạch ba mặt thọ địch không thể chống đỡ nổi, cố sống cố chết mở đường máu chạy về. Nguyễn Chích cùng Đặng Thanh vọt lên dẫn đầu đoàn quân đuổi theo. Mã Hoạch chạy vào thành, quân canh không kịp đóng cửa, Nguyễn Chích cùng ba quân ùa vào diệt gọn hơn sáu trăm tên địch. 
Đặng Thanh trong lúc cùng chủ tướng xông pha truy kích tướng giặc, chợt thấy ba ngọn thương từ phía ngôi nhà đang nghi ngút cháy vun vút lao tới, không kịp suy nghĩ, chàng dùng hết thần lực tung mình phi thân lướt theo, dùng trường kiếm chém bạt được cả ba mũi thương khi vừa chạm lưng Nguyễn Chích. Nhưng do dùng sức quá mức, chàng mất đà chới với, ngay lúc đó một loạt phi tiêu như ánh chớp xẹt ra. Không thể tránh né hết, chàng bị một mũi găm vào ngực trái. Lúc này Nguyễn Chích đã kịp vung đại đao kết liễu Mã Hoạch, quay lại phát hiện vấn đề liền phất ra một chùm ngân tiêu, tức thì mấy tên thủ hạ của chủ tướng quân Minh chết tốt. Chàng hô quân bồng Đặng Thanh lên ngựa lập tức đưa về Hoàng Nghiêu chạy chữa.
Căn cứ Hoàng Nghiêu hoạt náo hẳn lên. Từng đoàn xe chở chiến lợi phẩm nối tiếp kéo về sau khi đã chia một phần cho dân nghèo. Nhổ được thành Quỳnh Lưu, từ đây cả một vùng Ngọc Sơn và một phần rộng lớn phía Bắc Nghệ An thuộc quyền làm chủ của nghĩa quân. Nhưng niềm vui không trọn vẹn. Trong phòng phó tướng, Đặng Thanh cứ chập chờn nửa tỉnh nửa mê. Đã ba ngày trôi qua, những cơn đau quặn làm chàng nhăn nhó, chẳng ăn uống được gì. Nhưng hễ vị lương y già chuẩn bị y cụ để thăm khám là Đặng Thanh lại phát hiện ra ngay rồi nổi nóng, xua đuổi. Mặc cho Nguyễn Chích ân cần khuyên bảo, mặc cho vị lương y tìm đủ mọi cách, chàng vẫn nhất mực không cho đụng vào người. Nguyễn Chích thấy vị phó tướng vì mình chẳng quản nan nguy, mới mấy ngày mà khuôn mặt thanh tú đã hốc hác, tiều tụy, chẳng thể cầm lòng được nữa. Ông dùng đến quân lệnh. Không thể không nghe theo, chàng bật khóc thút thít, yêu cầu không ai được quan sát vị lương y làm việc.
May mắn ngọn phi tiêu chưa xuyên vào tim, chỉ mất máu quá nhiều, rửa và đắp thuốc chừng nửa canh giờ sau, Đặng Thanh chìm vào giấc ngủ. Nguyễn Chích được thông báo tình hình. Ngài rất ngỡ ngàng. Mừng vì vết thương không ảnh hưởng đến tính mạng. Băn khoăn vì không hiểu sao Đặng Thanh lại phải làm như vậy?
Đã sang canh tư, căn cứ chìm trong giấc ngủ. Chỉ còn tiếng trùng khuya từng hồi rả rích vang lên khúc man ca như vọng về từ vô lượng kiếp người. Cùng ngọn đèn đêm, Nguyễn Chích túc trực trong phòng bệnh. Thỉnh thoảng, chàng kéo tấm mền đắp ngang bụng, lấy chiếc khăn choàng qua cổ giữ ấm cho Đặng Thanh. Từng cử chỉ nhẹ nhàng, âu yếm. Tự đáy lòng dâng lên nỗi xuyến xao. Chàng nghĩ tới bản thân mình, một cô nhi côi cút, từ nhỏ đã thiếu đi bàn tay ấm áp dịu hiền chăm sóc của từ mẫu, lại cũng chẳng có được sự nghiêm khắc giáo huấn của phụ thân? Họ đã lần lượt rời bỏ chàng trong một cơn dịch bệnh nghiệt ngã. May thay, chàng có được tình yêu thương, sự chở che, nuôi nấng và giáo dục, rèn giũa tận tâm của dưỡng phụ. Rồi đến khi tới tuổi trưởng thành, dưỡng phụ lại cũng rời chàng mà đi sau phút sa cơ bị tên sư đệ đồng môn Lương Nhữ Hốt gài bẫy. Để lại mình chàng chơ vơ trên đất Việt đang cơn cát lầm bụi đỏ. “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, lời dưỡng phụ dạy dỗ tự ngày nào xoáy sâu vào tâm tưởng, thành cái lẽ tự nhiên, trách nhiệm của người quân tử, chàng tạm gác thù riêng, lập chí đánh đuổi giặc Ngô, khôi phục sơn hà. Mấy năm qua, là những chuỗi ngày dài chàng bươn bả, toan lo, xây dựng căn cứ, huấn luyện nghĩa binh. “Thời gian như bóng câu qua cửa”, thoáng chốc đã ngoại tam tuần, đại sự chưa thành mà gia thất cũng là cảnh phòng không. Trong thẳm sâu trái tim, chàng mong muốn có một người để bầu bạn, sẻ chia. Chàng quay lại đắm đuối ngắm nhìn Đặng Thanh dẫu còn đương trong giấc miên sầu. Lát sau, chàng lặng lẽ đứng lên, ra hiên phòng. Đêm chùng cánh võng. Vài ngôi sao cô đơn le lói trên bầu trời đen sẫm. Chàng bất chợt buông tiếng thở dài thõng thượt, rồi lầm thầm cảm tác mấy vần tứ tuyệt: “Giữa cuộc cát lầm nợ núi sông/ Mười năm chưa thỏa chí tang bồng/ Anh hùng há quản đời sương gió/ Chỉ thẹn lòng thương phận má hồng”.
Bỗng nghe húng hoắng, Nguyễn Chích bước vội vào giường bệnh. Đặng Thanh bối rối, gắng gượng ngồi dậy, chắp tay thi lễ:
- Xin minh công xá tội!
Nguyễn Chích vội vàng đỡ Đặng Thanh nằm trở lại, ánh mắt trìu mến:
- Ta đã biết cả rồi. Hiền muội hãy cứ tĩnh dưỡng!
Nói xong, lệnh cho người lính hầu đi hâm lại chén cháo, rồi tự mình lấy ly nước mát cho Đặng Thanh uống. Nhìn cử chỉ của vị chủ tướng, Đặng Thanh thấy được an ủi phần nào. Một lát sau, cháo được đưa lên, mùi gà tần nghi ngút khắp căn phòng, đánh thức các giác quan đã ngủ vùi mấy hôm nay. Đặng Thanh ăn ngon lành. 
Chừng đã khỏe lên nhiều, khuôn mặt hồng hào, tươi tắn hơn cộng với vẻ ngượng ngùng làm tăng thêm mấy phần duyên dáng. Nàng sửa sang lại đầu tóc, y phục, mời Nguyễn Chích ra thư phòng, rồi chắp tay, cúi mình hành lễ:
- Minh công đã biết mà không trách phạt là may mắn cho kẻ tội lỗi này lắm lắm!    
Nguyễn Chích khoát tay:
- Đừng minh công gì cả, hãy gọi ta là ca ca. Ta biết hiền muội chắc chắn có nỗi khổ tâm nên mới phải hành sự như vậy. 
Đặng Thanh ngước cặp mắt long lanh, hàm chứa sự kính trọng, tin tưởng: 
- Muội tên thật là Nguyễn Thị Bành - cái tên nằm trong trí nhớ non thơ của muội. Bởi khi gặp cơn gia biến, muội mới chưa đầy tám tuổi. Muội không thể nào quên cái ngày đen tối khủng khiếp đó. Nó làm muội luôn gặp ác mộng trong suốt mấy năm trời. Giặc Minh xâm lược nước ta, nghe đâu họ Hồ đã dốc hết trí lực để chiến đấu chống lại chúng. Nhưng vì lòng dân không theo nên giang sơn gấm vóc nhanh chóng rơi vào tay quân giặc. Khi đó, gia đình muội sống dưới chân dãy núi Hà Lĩnh. Cuộc sống nghèo khó nhưng yên vui. Chợt lũ cuồng đồ kéo tới, chúng cướp phá, đánh đập rồi lần lượt sát hại từng người thân trong gia đình. Muội kinh khiếp, hoảng loạn, chỉ biết ôm mặt khóc thét nhưng vẫn kịp nhận ra, khi lưỡi đao từ tên giặc Minh bổ xuống thì có một người không biết từ đâu lướt tới dùng cây nạng gỗ đánh văng thanh đao, rồi chỉ trong phút chốc giết sạch lũ giặc. Sau đó người ấy cắp muội phi thân chạy như bay vào núi.
Nói đến đây, nàng ôm mặt khóc nức nở. Nguyễn Chích an ủi rồi vung quyền gằn lên từng tiếng: “Quân cuồng Minh bạo ngược, ta thề sẽ diệt hết chúng bay!”.
Ân sư đưa muội cứ ngược theo dãy Hà Lĩnh mà đi. Hơn ngày sau tới một thạch động. Lối vào um tùm dã thảo. Cửa động chỉ vừa hai người chui lọt nhưng bên trong rất rộng rãi, có nhiều chỗ bằng phẳng lại có một hồ nước nhỏ trong vắt, mát lạnh. Không gian thạch động sáng sủa, thoáng đãng bởi trên vách đá có một số khe hở nên ánh mặt trời len lách tràn vào. Ân sư ân cần khuyên bảo, chăm sóc, nhờ vậy muội cũng dần quen. Thời gian sau, ân sư chỉ dạy muội học chữ, học quyền, luyện nội ngoại công, khinh công. Nhiều lúc mệt mỏi, chân tay đau nhức, nhất là nhớ cha mẹ, anh chị, muội rấm rứt khóc. Nhưng nghĩ đến những tên giặc Minh khốn kiếp, muội lại có thêm nghị lực, quyết tâm luyện tập. 
Ba năm thấm thoắt qua mau, muội đã thành thạo các môn cơ bản. Ân sư bắt đầu truyền thụ cho muội bộ Song long Việt kiếm và các bí kíp nâng cao khác. Ân sư rất chu đáo, cứ mỗi năm, muội lại được cùng Người xuống núi một lần vừa mua sắm vật dụng sinh hoạt thiết yếu, vừa có thêm vốn sống giang hồ. Mỗi lần có khi kéo dài cả tuần trăng, nên muội học hỏi được nhiều điều bổ ích. Lại thêm năm năm trôi qua, muội đã thay đổi rất nhiều về tầm vóc, kiến văn, võ lực tăng tiến vượt bậc. Ngược lại, ân sư mỗi ngày thêm già yếu, vết thương thường xuyên tái phát, hành hạ. Một buổi chiều hai đông trước, sau khi chỉ dạy cho muội hiểu thêm sự tinh túy, uyên thâm, ảo diệu của những thức kiếm cuối, Người gọi muội nghỉ sớm. Bên ánh lửa bập bùng nơi thạch động, Người chậm rãi kể lại câu chuyện cuộc đời mình.
Người vốn họ Lê, tên Trọng Nghĩa, dòng dõi Thượng tướng quân Lê Phụng Hiểu. Từng làm Đô tướng quân Long dực từ thời Giản Hoàng Phế Đế. Năng lực vượt trội, chỉ vì không phải xuất thân hoàng tộc lại không có tiền lo lót nên không được cất nhắc. Đến khi Trần Khát Chân đỗ Thái học sinh, cũng chỉ được bổ làm Đô tướng. Hai người vì liên tài đã trở thành đôi bạn thân thiết, tâm giao. Năm Canh Ngọ 1390, Trần Khát Chân được Thượng hoàng Nghệ Tông giao trọng trách chỉ huy quân đội nhà Trần chống lại cuộc xâm lăng của Chiêm Thành, Người trong đội tiên phong lao lên soái thuyền chém chết Chiêm đế Chế Bồng Nga. Cuộc chiến thắng lợi, Trần Khát Chân trên đỉnh cao danh vọng ban cho nhiều đặc ân nhưng Người đều từ chối, chỉ xin nhận vị trí chỉ huy đội cận vệ. Năm 1398, Hồ Quý Ly bắt vua Thuận Tông nhường ngôi cho con trai khi đó mới ba tuổi. Một năm sau lại sai người giết vua Thuận Tông. Những việc làm ấy khiến một số quan lại trung thành với nhà Trần càng thêm bất mãn. Họ liên kết với nhau, tôn Trần Khát Chân làm chủ sự, tìm cách mưu sát Hồ Quý Ly, chấn hưng Trần triều. Sự việc bại lộ, năm 1399 cũng là năm xảy ra cuộc huyết nạn dòng tộc Trần, Trần Khát Chân cùng hơn 370 vị tôn thất nhà Trần lâm tử. 
Trong thời khắc cuối cùng, Trần tướng quân đã cho Người biết nơi cất giấu bảo vật. Khi tìm được, Người mới hay đó là bộ Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Bộ kinh thư vô giá này là của Hưng Đạo vương viết ra, gồm quyển thượng để huấn luyện quân đội nhà Trần. Chiến tranh kết thúc, nhà Trần sợ lọt ra ngoài nên đã ra chỉ dụ thu lại tất cả những bản đã phát cho các tướng lĩnh. Tổng kết ba cuộc kháng chiến ái quốc vĩ đại, Hưng Đạo vương đúc rút những bài học kinh nghiệm sâu sắc cùng với những bí kíp võ công có được biên vào quyển hạ. Chỉ có hai bản được in. Nhờ cơ duyên, Trần Khát Chân may mắn có được một bản. Ông dựa vào đó nghiền ngẫm, khổ luyện mà nên được bản lĩnh như vậy.
Đặng Thanh với tay châm thêm ngọn bạch lạp, chụm một ngụm liên hoa trà, khuôn mặt nặng trĩu nỗi niềm. Nguyễn Chích từ nãy vẫn chăm chú lắng nghe, lòng đầy cảm khái.
Sau đó, ân sư đi khắp nơi, kêu gọi, liên kết các lộ anh hùng chung sức phá Hồ. Trong số quần hùng, có Lương Nhữ Hốt, vốn tổ tiên nhiều đời ăn lộc nhà Trần nên hăng hái tham gia. Ân sư có người đồng chí nên sẵn lòng chia sẻ. Ngờ đâu, Lương Nhữ Hốt lại là tay mưu mô, xảo quyệt, lừa thầy phản bạn. Khi biết ân sư có kinh sách quý, hắn rắp tâm chiếm hữu. Nhằm lúc ân sư không phòng bị, hắn đã dùng bột ớt hiểm xay muối hắt vào mặt, chặt đứt chân trái ân sư rồi lấy kinh sách bỏ đi. Đau đớn, căm phẫn tột cùng! Cũng may là Lương Nhữ Hốt chỉ lấy được quyển thượng. Kế hoạch báo thù đành phải gác lại. Ân sư tính kế lâu dài. Người lẩn vào rừng, chọn nơi vắng vẻ dưỡng thương, nghiền ngẫm binh thư và hi vọng có thể tìm ra phương cách tốt nhất để tiếp tục mưu cầu đại sự.
Nghe đến đó, Nguyễn Chích nắm chặt tay, mày tằm dựng ngược, gằn giọng: “Lại là tên khốn kiếp ấy!”.
Trời chiều đông thâm u, những cơn gió rít qua kẽ đá lạnh lẽo, ân sư như vị cao tăng đắc đạo đang truyền dạy cho đệ tử những thời kệ cuối cùng trước khi nhập về miền tịch diệt. Người cẩn thận lấy từ trong bọc ra một cuốn sách, ân cần: “Đây chính là quyển hạ Vạn Kiếp tông lược bí truyền của đức Hưng Đạo vương. Ta trao cho con! Con hãy vì giang sơn xã tắc Đại Việt, vì bá tánh thiên hạ, vì ta, vì gia đình con mà nghiên cứu cho thật kĩ! Hãy đồng luyện cả võ công lẫn binh pháp! Chỉ khi nào tựu thành Song long Việt kiếm, thấu tỏ các phép biến trận con mới được xuống núi! Làm người phải quyền biến, không nên cố chấp, cứng nhắc; hành sự phải suy nghĩ trước sau, cân nhắc thiệt hơn, không tham cái lợi trước mắt mà bỏ đi cái lợi lâu dài; khi thời cơ đến phải quyết đoán, chần chừ, do dự sẽ hỏng mất đại sự! Hiện nay, giặc Minh như đám dã thú đang tàn hại đất nước ta. Chúng đi đến đâu là nhà cháy, người chết, hương thôn điêu tàn, ruộng đồng hoang phế, mồ mả, tông miếu đổ nát. Con hãy vì đại cuộc làm trọng! Tìm cách đánh đuổi chúng, sau đó mới nghĩ đến chuyện riêng tư! Con hãy hứa với ta!”.
Muội vô cùng xúc động. Ân sư ngửa mặt cười một tràng dài vang động núi rừng. Tràng cười tựa ngàn vạn cung đàn hợp tấu khúc bi ca, khi lảnh lót vút cao, lúc cuồn cuộn tuôn trào tựa lớp lớp những con sóng lừng cuồng nộ giữa đại dương bao la rồi lại trầm đục, hoang vu, kì bí như vọng về từ non ngàn thăm thẳm chất chứa bao ẩn ức, sầu muộn, bao giông bão cuộc đời. Sau đó, khuôn mặt Người giãn ra, đôi mắt hiền ánh lên chút hi vọng rồi từ từ khép lại.
Nguyễn Chích chắp tay xá về phía Bắc: “Kính thay vị anh hùng tiền bối!”. Rồi quay qua Đặng Thanh, trìu mến:
- Ta đã biết vì sao muội lại phải giả trai rồi.
Đặng Thanh giật thột nhưng tỏ vẻ vui vì vị chủ tướng kính mến đã đoán được cả tâm trạng, hành động của mình. Nàng bẽn lẽn:
- Mấy tháng trước, muội đã luyện thành Song kiếm. Nóng lòng trả thù cho ân sư, nên muội đã xuống núi tìm đến Tây Đô, dò hỏi biết được dinh phủ của tên cẩu quan bán nước cầu vinh Lương Nhữ Hốt. Đêm ấy, muội lẻn vào phủ tập kích. Nhưng thật tiếc! Có lẽ đã làm bao nhiêu điều ác đức, sợ bị trả thù nên hắn mời rất nhiều cao thủ đến phủ bảo vệ. Một mình muội không thể chiếm được thượng phong nên phải tìm đường rút. Mà chúng quá đông, truy kích riết róng, phải cố gắng lắm muội mới đánh lạc hướng được chúng. Lại nghĩ đã phạm lỗi, vội vàng không theo di huấn của ân sư, chưa thành công muội chưa dám trở về. Phiêu dạt nhiều nơi, nghe thiên hạ thầm thì về uy danh núi Hoàng Nghiêu, nhưng cũng chưa rõ hư thực thế nào? Muội mới cải trang đến đây, nói mấy lời loạn ngôn thử lòng tướng huynh. May mắn được tướng huynh thâu nhận. 
Nói rồi, nàng đứng lên mở hộc tủ, lấy chiếc tráp gỗ đã ngả màu nhưng vẫn còn rõ nét chạm khắc tinh tế. Chậm rãi lấy ra một vật được bọc cẩn thận trong tấm lụa điều, hai tay nâng lên, trịnh trọng: “Đây chính là bộ bí pháp bí truyền Vạn Kiếp tông bí truyền thư, muội xin được kính trình tướng huynh!”.
Nguyễn Chích vội vàng chặn lại: “Đó là báu vật truyền đời của hiền muội. Hiền muội hãy giữ gìn và nghiền ngẫm, học hỏi rồi truyền dạy lại tinh hoa cốt yếu cho ba quân tướng sĩ. Đấy cũng là điều tốt mà ân sư cùng Trần tướng quân chắc chắn sẽ vui lòng”.
Nói rồi, chàng mạnh bạo cầm hai bàn tay Đặng Thanh, nhìn xoáy vào đôi mắt tròn xoe còn ậng nước của nàng, tiếp tục: “Ta với hiền muội đều có cùng kẻ thù chung, có cùng mục đích, lí tưởng, cùng một con đường đi tới. Đó là đánh đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho muôn dân Đại Việt, xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường. Dù khó khăn, gian khổ, dù có phải đánh đổi bằng xương máu, tính mạng, huynh muội ta vẫn quyết thực hiện đến cùng!”.
Rồi chàng ngập ngừng: “Nhưng ta cũng muốn, chúng ta không chỉ có nghĩa quân thần, mà còn, còn có nghĩa...!”.
Đến đây, chàng chiến tướng hét ra lửa giữa ba quân lại ngượng ngùng khó nói. Đặng Thanh nở nụ cười e lệ: “Nghĩa là gì nữa ạ?”. “Nghĩa là, nghĩa là... nghĩa... phu thê!”. Trời đêm cuối xuân còn vương đầy hơi lạnh mà người chàng bừng bừng như vừa uống phải mấy hồ rượu mạnh, khuôn mặt chữ điền vuông vức ửng đỏ, bộ râu hùm cũng lấm tấm mồ hôi. 
Vô cùng bất ngờ! Mấy lời của Nguyễn Chích tựa hồ muôn triệu giọt nước thiện lành rơi xuống giữa sa mạc mênh mang cát cháy, lại như nghìn trùng con sóng khoái lãng dào dạt vỗ bờ khiến tâm can nàng chao động. Đặng Thanh người rung lên từng chặp, máu huyết rộn rạo, ngơ ngác ngước nhìn vị chủ tướng. Một hồi sau, nàng mới cúi đầu, e ấp: “Tiện thiếp may mắn được sự quý trọng, yêu thương của tướng công. Đó là hồng ân lớn nhất mà tiện thiếp chưa bao giờ dám nghĩ tới. Chỉ có điều, ân sư đối với tiện thiếp nghĩa nặng như núi, ân tựa bể khơi. Người vừa nằm xuống thịt xương hãy còn chưa nguội. Cúi xin tướng công chờ tiện thiếp xong việc tang chế, sẽ cùng chàng nên nghĩa, trọn đời này tiện thiếp nguyện một lòng nâng khăn sửa túi, hầu hạ tướng công!”.
Nguyễn Chích vui mừng khôn xiết: “Ta nhất thời hồ đồ. Làm người trọng nhất là chữ hiếu, lẽ đâu ta không biết? Ta sẽ chờ nàng!”.
Nói rồi vòng tay ôm chặt Đặng Thanh vào lòng. Hương yêu từ hai tâm hồn đồng điệu, sẻ chia, quấn quyện thành những sợi tơ mềm bay bổng dệt nên ước mơ, hoài bão, nghĩa cả cao đẹp. Ngọn bạch lạp chợt ngời sáng; thư phòng bừng nở lửa tình yêu; non Hoàng, non Nghiêu nghiêng mình chao động; gió Hoàng giang xôn xao tấu bản hòa ca ngân lên từ hồn thiêng sông núi như muốn chia vui, ấn chứng cho mối diễm tình của đôi anh hùng, liệt nữ.
Ngoài kia, bình minh đang lên, từng chùm sáng ấm áp dịu dàng lan tỏa. Có đôi chim hồng quấn quýt dập dìu chao lượn rồi vút lên nền trời rạng rỡ ánh dương.
            M.X.T


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 191
 Hôm nay: 6452
 Tổng số truy cập: 13321127
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa