Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /     /   Vùng ký ức về người lính quân hàm xanh
Vùng ký ức về người lính quân hàm xanh

TRẦN ĐOAN TRANG 

Vùng ký ức về người lính quân hàm xanh

Bút ký

Đã vài lần đi thực tế tới các đồn biên phòng để viết về Bộ đội biên phòng, khi Tén Tằn (Mường Lát), Yên Khương (Lang Chánh), nơi cổng trời miền Tây xa xôi…; khi Hải Hòa (Nghi Sơn), Lạch Trường (Hoằng Hóa), Quảng Vinh (Sầm Sơn)… vùng tiền duyên của xứ Thanh trước Biển Đông hùng vĩ, tôi có may mắn được gặp những người lính quân hàm xanh mà bước chân của họ từng dằng dặc in dấu trên mọi nẻo đường biên cương Tổ quốc. Những cuộc gặp gỡ ấy để lại bao ấn tượng và cũng còn là món nợ văn chương mà tôi thấy cần phải trả. Đó là làm sao có được những con chữ, phản ánh sinh động, thành tâm về những gian nan, vất vả, chiến đấu hy sinh của các anh để từng ngọn núi, dòng sông, từng cửa lạch, hải đảo… nơi biên thùy xứ Thanh mãi mãi là một dải vững bền. Đối với Đồn Biên phòng Hải Hòa (Nghi Sơn), tôi đã có một món nợ như vậy. Hai năm trước đây, tôi từng đến Đồn Biên phòng Hải Hòa, trong một chuyến đi thực tế ngắn ngày, đúng ra chỉ có một buổi sáng. Trong cái khoảng thời gian có thể gọi là “cưỡi ngựa xem hoa” ấy, tôi được Chính trị viên là Trung tá Lê Duy Lượng và Chính trị viên phó là Thiếu tá Lường Khắc Hành, cho biết nhiều thông tin rất thiết thực về một đồn biên phòng trấn ải ở vùng xung yếu bậc nhất của tỉnh Thanh Hóa. Sau đó, Thiếu tá Lường Khắc Hành còn đưa tôi đến thăm bến tàu Lạch Bạng, nơi ngày ngày đêm đêm có hàng trăm tàu, thuyền ra khơi về bến và trạm Biên phòng Hải Hòa, được ví là “con mắt của đất liền thức suốt 24/24 giờ”, theo dõi thời tiết, khí hậu, trông coi sự an toàn và bất an trên biển khơi vùng Nam Thanh Bắc Nghệ, để thông báo cho ngư dân và các lực lượng bảo vệ bờ biển kịp thời ứng phó. Cũng trong chuyến đi ấy, tôi còn được nghe kể nhiều chuyện về những ngày chiến tranh chống Mỹ, trong đó, ấn tượng nhất là chuyện từ năm 1965 đến năm 1972, Đồn Biên phòng Hải Hòa đã phối hợp với dân quân địa phương, bắn rơi hai máy bay Mỹ bằng súng bộ binh (súng trung liên và súng trường K44). Đây là chiến công chưa từng có của một đồn trong lực lượng Bộ đội Biên phòng cả nước (trước đây gọi là lực lượng Công an nhân dân vũ trang). Nghe xong câu chuyện, tôi rất muốn được đến thăm trận địa cũ, gặp những người lập chiến công ngày ấy nhưng do không còn thời gian, vả lại, các sự kiện đó đã xảy ra hơn nửa thế kỷ rồi, khó mà chắp mối ngay được các nhân chứng, nên Thiếu tá Hành hẹn sẽ cố gắng hết sức, tìm nhân mối thông tin để giúp cho công việc “trả nợ” của tôi. Trên đường, Đồn trưởng - Thượng tá Nguyễn Thế Anh đang đi công tác xa đã gọi phôn cho tôi, anh đã bố trí Thiếu tá Lường Khắc Hành, thay mặt Ban Chỉ huy tiếp đón và giúp đỡ nguyện vọng của tôi.
*
Đứng đợi sẵn ở cổng đồn, Thiếu tá Lường Khắc Hành “quân dung tươi tỉnh” đón tôi và vui vẻ nói: “Tranh thủ thời gian, ta tới nhà bác Nhan luôn chị nhé”. Thế là chúng tôi len lỏi theo con đường vòng vo, uốn lượn, thế lên, thế xuống gập ghềnh bên mé Tây Nam núi Thổi để đến “nhà bác Nhan”. Đây là một con đường nhựa nhỏ, nơi là huyết mạch chuyển đất đá của núi Thổi để mở một đại lộ xuyên thị xã Nghi Sơn, từ Quốc lộ 1A đến khu nghỉ dưỡng Hải Hòa và lại đang tiết mưa xuân rây hạt ẩm ướt cường độ liên miên, nên mặt đường tựa như bị láng một lớp váng mỏng phù sa đỏ. Thế mà ở điểm hẹn là khu tăng gia của Đồn Hải Hòa, đã thấy một người đàn ông vâm váp, trong bộ đồ thể thao, ngồi xe máy đợi sẵn. Không chờ chúng tôi đến nơi, ông đưa tay ra hiệu và liền chạy xe, làm “hướng đạo” phía trước. Lại tiếp những khúc khuỷu, ngoằn ngoèo nữa trên con đường độc đạo trong mưa, chúng tôi đến điểm dừng. Đó là nhà ông Trần Anh Nhan, tức là “nhà bác Nhan”, địa chỉ mà Thiếu tá Hành đã nói với tôi, lúc ở cổng Đồn Hải Hòa.
Ông Nhan tuổi Nhâm Thìn (1952), có cơ ngơi vườn cây, ao cá và cả một cái sân rộng cây cảnh, hoa tươi đồ sộ trên diện tích nửa héc ta đất mái đồi, lổn nhổn đá nâu và đất đỏ. Nhìn bức toàn cảnh đó, tôi thầm cảm phục đầu óc và bàn tay gia chủ. Chắc chắn gia đình ông đã đổ biết bao tâm trí, tài lực cho đất đỏ, cho đá nâu, đá dăm… mới tạo được những hoa lợi màu mỡ và thiết thực thế này!
Khi Thiếu tá Hành đề đạt với ông Nhan về nguyện vọng của tôi, ông cười lớn nhưng lại không trả lời ngay vào câu hỏi. Rồi thấy gương mặt ông bỗng trở nên lặng lẽ, đậm nét trầm tư như một người đang cố hồi quang về miền ký ức nào đó. Thoáng sau, ông bỗng sôi nổi trở lại, thốt lên: “Các bác, các chú Công an nhân dân vũ trang là người tuyệt vời!”. Nói rồi, ông giải thích, ngày trước gọi Công an nhân dân vũ trang, tức là Bộ đội Biên phòng ngày nay. Tên gọi thì có thay đổi nhưng vẫn quân hàm xanh, màu lá rừng, màu nước biển như xưa. Thiếu tá Lường Khắc Hành vội nắm hai tay vào bàn tay ông Nhan như thay cho một lời cảm tạ, tri ân. Ông Nhan kể tiếp, rằng ông phải nhắc lại điều đó, bởi từ tuổi thơ, ông đã được gắn bó với những bác, những chú, những anh bộ đội quân hàm xanh đến đóng quân ở nhà ông. Cụ thể là năm 1959, nhà ông được chọn làm nơi “đặt” Ban Chỉ huy Đồn, với Đồn trưởng là Thiếu úy Mai Gia Tuân (bí danh là Sơn) Chính trị viên là Thiếu úy Hoàng Kim Thi (Bí danh là Thủy). Ngày ấy, tất cả từ chỉ huy đến chiến sĩ của đồn đều đóng tại nhà dân. Đồn chỉ có một ngôi nhà trên cao điểm 90 của núi Thổi để làm nhiệm vụ trực chiến, trinh sát vùng biển, vùng trời, vùng đất trên địa bàn. Đến hồi chiến tranh chống Mỹ (1965-1972) thì có thêm ba trận địa phòng không ở núi Do Xuyên và núi Thổi, trong đó chỉ có một trận địa chính ở phía Đông Nam núi Thổi, hai nơi còn lại đều là trận địa nghi binh.
Có thể nói rằng, tình hình mọi mặt ở vùng Hải Thanh, Hải Thượng, Hải Hòa… trong những năm cuối 1950 đầu 1960 rất khó khăn, phức tạp. Sau khi xảy ra vụ Do Xuyên, Ba Làng với hàng ngàn người dân Công giáo bỏ vào Nam, cư dân ở đây loãng hẳn ra, có thôn làng không còn một gia đình nào. Đơn vị 80, Công an nhân dân vũ trang về đây làm nhiệm nòng cốt cùng cấp ủy và chính quyền địa phương bảo vệ an ninh trật tự trên địa bàn, chống các thông tin thất thiệt về chế độ ta, đặc biệt là bắt tay ngay vào việc sắp xếp cho nhân dân phủ lấp khoảng trống cư trú, khôi phục sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, đảm bảo cho mỗi gia đình, mỗi làng xóm các điều kiện an cư lạc nghiệp. Bộ đội sao xanh của đồn đóng quân trong dân, mỗi người, từ vị thủ trưởng đến chiến sĩ mới đầu quân đều như một thành viên thân thiết của mỗi hộ dân. Ngoài giờ làm nhiệm vụ trực ban, trực chiến, các anh đi làm đồng cùng dân, chăm sóc sức khỏe, chữa trị bệnh tật cho dân, đặc biệt là xóa nạn mù chữ và tổ chức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ theo nhịp sống mới, xây dựng hòa bình. 
Ông Nhan nhớ lại tiếp, bộ đội sao xanh, sống trong nhà dân không những thực hiện triệt để mười lời thề danh dự “Kính trọng dân, không lấy cái kim sợi chỉ của dân” mà còn san sẻ phần lương thực thực phẩm rất eo hẹp của mình cho những người dân còn thiếu đói… Nhờ vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, hàng trăm người đã được các anh bộ đội quân hàm xanh dạy chữ, biết đọc thông viết thạo, đi học tiếp ở trường xã, trường huyện. Trong số này có bà Nguyễn Thị Thuôn về sau đã trở thành Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hải Thanh, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã. Công việc sản xuất và các mặt công tác xã hội khác đều trở nên quy củ, đồng ruộng không bỏ hoang, ngư dân bám biển. Các nghề truyền thống khác như nước mắm Ba Làng lại nổi danh như mọi thời trước. Để đến khi cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước diễn ra, vùng đất biển đảo Tĩnh Gia - Hòn Mê thực sự là một pháo đài của lòng dân, bảo vệ vững chắc biển đảo của Đông Nam tỉnh Thanh.
Đang câu chuyện về một thời bộ đội quân hàm xanh ba cùng với dân xây dựng cuộc sống mới trên địa bàn, ông Nhan dường như sực nhớ đến câu hỏi về chiến công bắn rơi hai máy bay Mỹ đã được tôi đặt ra ban đầu, thế nên ông làm hiệu như xin lỗi rồi chuyển đề tài: Tôi phải kể một chút về cái buổi đầu đầy khó khăn và rất mực gắng sức của bộ đội và nhân dân quê tôi ngày ấy để thấy rằng, có được chiến công mà chị hỏi là kết quả của thứ tình nghĩa đặc biệt, quân và dân đùm bọc nhau, như cá trong nước, như nước nuôi cá. Tôi vẫn còn nhớ như in, suốt các năm từ 1964 - 1968 và sau đó là năm 1972, quê tôi không có ngày nào là không có máy bay địch đến ném bom, pháo bầy ngoài hạm Mỹ bắn vào, từng đường đạn đi đỏ lừ trên trời, có buổi chiều chúng đánh vào xóm Thượng làm chết 8 người; đêm bắn pháo kích làm chết tiếp nhiều người khác nữa. Cả làng trắng khăn tang. Đau xót lắm! Thế nhưng cuộc sống chiến đấu và phục vụ chiến đấu vẫn không một giây ngơi nghỉ. Đợt năm 1964 - 1968, cha tôi, khi đó là chủ nhiệm hợp tác xã từng đêm đưa dân quân phối hợp với bộ đội, mỗi người mang theo một cái mấu sắt lặn xuống sông Lạch Bạng để móc vào các bao tải, các hòm gỗ, hòm sắt, cứu gạo, thực phẩm, vũ khí do tàu thuyền của ta vận tải vào chiến trường bị bom đạn giặc đánh đắm. Bao bà, bao chị thức trắng đêm hong gạo, đóng lại bao bì để chuyển đi tiếp, không để rơi vãi, không bớt lại dù chỉ một cân, một lạng. Lực lượng trực chiến của Đồn Hải Hòa hạ quyết tâm, bắt giặc lái phải đền tội. Thế là vào năm 1966, sau nhiều ngày mật phục, trận địa chính của ta khai hỏa, bắn rơi một AD6 của giặc. Khi ấy tôi đang đi học ở nơi sơ tán, lúc về chỉ được cha kể lại, thằng giặc này ăn đòn bất ngờ, cháy bùng lên như ngọn đình điệu giữa trời rồi lao được một đoạn, đâm đầu xuống biển. Còn khi ta bắn rơi chiếc thứ hai, thì tôi là người trực tiếp tham gia trên trận địa núi Thổi. Cũng xin nói về mình tí chút từ lúc 7 tuổi học lớp 1 (hệ 10/10 trước đây), tôi đã được bác Sơn, bác Thủy (tức là Đồn trưởng và Chính trị viên của Đồn đóng trong nhà tôi), thường sai (nhờ) đi đưa tin hoặc thư cho cơ sở, của Ban Chỉ huy Đồn như bé Lượm, chú liên lạc nhỏ trong thơ Tố Hữu. Tôi rất thích công việc này rồi khi học xong phổ thông, tôi đăng ký vào Công an nhân dân vũ trang, tức Bộ đội Biên phòng nhưng do đảm nhiệm Bí thư Liên chi đoàn (bao gồm cả thanh niên địa phương và bộ đội biên phòng), lại là kế toán rồi kế toán trưởng của hợp tác xã hợp nhất nên cấp trên chưa đồng ý. Tôi liền xung phong cùng nhóm dân quân của xã tham gia cùng bộ đội của Đồn Hải Hòa, trực chiến trên núi Thổi, đây là lực lượng quân dân đã phối hợp bắn rơi chiếc AD6 năm 1966. Đến tháng 4 năm 1972, máy bay Mỹ đánh phá trở lại miền Bắc, anh em trực chiến cả bộ đội lẫn dân quân quyết tâm phải lập công như cha anh đã lập công lần trước. Thế là vào ngày 3 tháng 8 năm 1972, lúc đó là 7 giờ sáng, tôi mới đi cày ruộng về, ăn tạm mấy củ khoai rồi vội lên trận địa, thay cho kíp trực chiến đêm trước. Khoảng 8 giờ, bốn máy bay địch từ biển lao vào đánh phá dọc sông Lạch Bạng đến cầu Hang. Chúng tôi chỉ chờ khoảnh khắc đó để tất cả nhắm vào mục tiêu, đồng loạt nổ súng. Tôi nhớ Trung đội trưởng của chúng tôi ôm cả khẩu trung liên, không cần phần đế giơ thẳng hướng máy bay giặc mà bắn xối xả. Một máy bay giặc trúng đạn, phát ra tiếng nổ lớn, lửa bùng lên, nó lao ra biển cùng một cái đuôi lửa khói, trước khi đâm xuống nước. Người làng tôi kể lại, họ thấy cái tàu bay bị bắn cháy lần này, rơi xuống biển, giống như cái tàu bay AD6 đã bị bắn rơi hồi năm 1966…
Ông Nhan vừa dừng câu chuyện, tôi khẽ thốt lên: “Một chiến công độc đáo! Bác Nhan có trí nhớ thật đáng nể”. Ông Nhan cười: “Chuyện như thế làm sao mà quên được chị. Bây giờ nghĩ lại, cũng thấy thật bõ công bao lần phục kích đón lõng đầu đuôi!”.
Trời đã chấm trưa, nhưng tôi vẫn cố hỏi thêm về cái đoạn sau chiến công năm 1972. Ông Nhan kể: Sau khi hòa bình thống nhất năm 1995, ông làm Chủ nhiệm hợp tác xã rồi làm Trưởng ban dân số kế hoạch hóa gia đình. Trong công việc ông luôn được phối hợp với các chiến sĩ Đồn Biên phòng Hải Hòa cho đến ngày nghỉ hưu. Nói thế rồi ông kể vanh vách từng thế hệ chỉ huy Đồn, ai còn ai mất, ai đang ở Nghi Sơn, ai ở vùng đất khác… Nói về bất kỳ người nào ông cũng dẫn ra những kỷ niệm sâu sắc bằng các tình tiết sống động… 
*
Đã phải về, chúng tôi lưu luyến chia tay ông chủ nhà Trần Thế Nhan thân tình và cởi mở. Đến lúc ấy thì một bí mật được bật mí từ Thiếu tá Lường Khắc Hành. Anh vừa được Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Thanh Hóa bổ nhiệm giữ chức Chính trị viên Đồn Biên phòng Yên Khương trên biên giới Việt - Lào. Đây là lần thuyên chuyển thứ sáu trong cuộc đời làm bộ đội biên phòng của anh. Ông Nhan và tôi chúc Thiếu tá Lường Khắc Hành chân cứng đá mềm trên nẻo đường biên cương mới anh sắp đến. Ông Nhan nắm tay Thiếu tá Hành rất lâu, vẻ mặt đầy xúc động. Cái khoảnh khắc ấy thật khó có ngôn từ nào tả cho được tình cảm quân dân sâu nặng, thủy chung mà chủ nhà đã nhớ và kể lại khi những anh bộ đội quân hàm xanh đến trấn ải ở vùng đất: Hải Hòa, Hải Thanh, Do Xuyên Ba Làng, Lạch Bạng, Núi Thổi, Núi Do… và phía trước biển còn có cả mười lăm ngọn núi nổi lên như trường thành trên biển của quần đảo Hòn Mê kiên cường. Cũng từ tình tiết này tôi càng hiểu lý do tại sao, với lực lượng của một đồn biên phòng, nơi cửa biển, chỉ có mấy chục con người mà các anh đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ quản lý, bảo vệ khu vực địa bàn ven biển thị xã Nghi Sơn, dài 23,5 kilomet, gồm 9 phường với cư dân là 98.409 người/25.141 hộ gia đình, trong đó có ba xứ đạo công giáo là: Ba Làng, Thượng Chiểu và Hoài Yên với cư dân là 13.363 người/ 2.830 hộ gia đình. Có được thành tích này, chắc chắn, các anh luôn thực hiện bốn cùng, ba bám như người thân trong nhà, như con em của nhân dân để lúc chia tay đi làm nhiệm vụ ở địa bàn khác, luôn có những phút lưu luyến cảm động như nhà thơ trí tuệ bậc thầy, Chế Lan Viên đã viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. 
                 

Hải Hòa - Mậu Xương
                       Tháng 2-2025

                          T.Đ.T


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 210
 Hôm nay: 6352
 Tổng số truy cập: 13321027
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa