Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Văn hóa   /   Tục kết Chạ ở làng Cẩm Hoàng 
Tục kết Chạ ở làng Cẩm Hoàng 

Tục kết Chạ ở làng Cẩm Hoàng 

NGUYỄN HUY MIÊN

Làng quê Việt Nam, cuộc sống đầy gian lao, vất vả bởi thiên nhiên và con người tác động, khiến cho cộng đồng làng xóm phải biết đoàn kết bên nhau, bảo vệ, xây dựng và phát triển quê hương. Ngoài nội lực trong làng xóm, các làng còn liên kết với nhau tạo thêm sức mạnh hỗ trợ nhau trong cuộc sống, trong sản xuất, bảo vệ xóm làng, nét đẹp truyền thống đó được duy trì từ đời này qua đời khác, được ghi trong Khế ước, Hương ước, gọi là kết Chạ.
Từ xa xưa, gần như ở tất cả các địa phương đều tồn tại tục kết nghĩa giữa các làng xã. Vùng Tây Đô số làng kết Chạ đông đảo; hình thức, nội dung kết Chạ phong phú; hoạt động giao lưu văn hóa đa dạng và những câu chuyện kết Chạ, những quy ước vô cùng độc đáo, hấp dẫn. Thông thường các làng ở sát nhau thì tổ chức kết Chạ để phòng trộm cướp, phòng chống thú dữ, phòng chống thiên tai địch họa, hỗ trợ nhau trong cuộc sống, tiếp đãi nhau khi làng Chạ có việc... Nhưng cũng có những làng ở cách xa nhau vẫn kết Chạ với nhau, đó là xuất phát từ sự kiện, một mối quan hệ tình cảm giữa hai làng đi lại rồi kết Chạ với nhau: làng Bèo, xã Vĩnh Long kết Chạ với làng Tự Cường, xã Thành Minh, huyện Thạch Thành. Làng Cẩm Bào kết Chạ với làng Thân của xã Cẩm Long, huyện Cẩm Thủy. Làng Cẩm Hoàng, xã Vĩnh Quang kết Chạ với làng Án Đổ, huyện Thạch Thành. Làng Phương Giai kết Chạ với làng Kênh Thủy, xã Vĩnh Thịnh. Làng Cao Mật kết nghĩa với làng Điều Đường (xã Yên Lâm - Yên Định), mối tình kết nghĩa ấy được truyền từ đời này qua đời khác, đến nay người làng Cao Mật còn ghi nhớ:
Làng ta giao hiếu làng Đường
Tình xưa nghĩa cũ như hương bén mùi.
Cùng nhau chia ngọt sẻ bùi
Nhất lai nhất vãng là ngoài ngàn năm.
Đất kia còn có khi mòn
Như ao một bức như con một nhà.
Hương ước cải lương (1942) của làng Phương Giai, có mục viết về tục kết Chạ “ ... Làng có giao lân với làng Bản Thủy (Kênh Thủy), khi có mở tiệc ăn mừng mà đồng dân công thuận, có giấy mời làng Quý Nghĩa, đều phải lấy cỗ nhắm mà thết đãi cho được long trọng...”. Hương ước của làng Thổ Phụ cũng có đoạn viết: “Xã ta và thôn Thọ Đồn từ xưa có tình hòa hảo, trừ tất cả những lúc có mời phải đến đáp lễ ra, còn hễ chức sắc hoặc người ở bàn nhất (cụ ông hàng cao tuổi nhất làng) qua đời, đều sắp đủ 30 khẩu trầu, một vò rượu, cử một lý dịch, một viên trùm đến viếng. Thôn đó nếu đến xã ta cũng sắp số lượng trầu rượu y như vậy để khoản đáp”. Khế ước của làng Cẩm Hoàng với làng Tây Giai từ xưa, đã kết Chạ coi nhau như anh em, trai gái của hai làng không được lấy nhau. Tuy khởi nguồn là dân tộc Mường nhưng làng Án Đổ (Đủ) đã chấp nhận và sáng tạo việc kết Chạ với người Kinh. Đây là sự giao lưu văn hoá Mường - Việt thể hiện hết sức sinh động.
Làng Án Đổ xưa kia gọi là Mường Đủ, làng Đủ được dân tộc Mường các nơi biết đến là đất Cun Đủ, nơi xuất xứ của hai thiên tình sử nổi tiếng đó là Nàng Nga - Hai Mối và Út Lót - Hồ Liêu. Đặc biệt ở cộng đồng Án Đổ này đã suy tôn Nàng Nga làm hàng Thánh Mẫu. Nàng Nga được biết đến là con gái của Cun Đủ, là một giai nhân đã chú trọng đến việc canh cửi và thương mại nên đã lấy được lòng của Hai Mối và vua Ai Ước (vua nước Thượng Lào). Ba cái chết của Nàng Nga, Hai Mối, và Ai Ước đã trở thành cụm đa ba gốc, cành lá đan che nhau, để lại cho đời sự kính ngưỡng sâu sắc, một văn hóa ứng xử nhiệm mầu. Đền mẫu thờ Nàng Nga bốn mùa hương khói phù hộ cho dân làng quanh năm no đủ, cuộc sống an bình, hạnh phúc 
Lệ xưa của Mường Đủ (Án Đổ), cứ ba năm một lần, Mường Đủ lại tổ chức mời làng Chạ. Nghi thức ăn chạ với Cẩm Hoàng cầu kỳ và long trọng. Hội Chạ được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 2 Âm lịch (người địa phương gọi dịp này là lễ Hạ nhật). Cả hai bên đều không phân biệt nam nữ. Sáng 10 tháng hai, thanh niên nam nữ bên Mường Đủ ăn mặc trang trọng, đẹp đẽ xuống tận Eo Dần để đón làng Chạ “Cẩm Hoàng”. Hai bên gặp nhau tay bắt mặt mừng, chuyện trò đằm thắm và cùng nhau hát đối đáp. Vừa đi vừa hát, vừa trò chuyện mãi chiều họ mới về tới nơi. Tại Mường Đủ đã bày sẵn án thư và cau trầu đón tiếp trang trọng. Mở đầu hội Chạ, bên Mường Đủ cử người đại diện đọc mục lục của làng, nói về sự tích hai bên kết Chạ. Bên Cẩm Hoàng cũng cử người đọc mục lục đáp từ. Tiếp đó người bên Mường Đủ bưng khay trầu đi mời làng Chạ. Buổi chiều mới đến, hai làng cùng ăn tạm cơm dấm ghém (cũng có thịt cá nhưng nấu theo kiểu ngày thường). Buổi tối cỗ hoa bàn cứ bốn người một cỗ ngồi thâu đêm suốt sáng, vừa ăn vừa tham gia các trò chơi. Các cụ ông thì đánh tổ tôm điếm, đánh cờ và xem xiếc leo dây, còn nam nữ thanh niên thì hát đối đáp. Vào đêm cuối của hội Chạ, Mường Đủ tổ chức đốt cây bông hoa. Hết hội Chạ, thanh niên Mường Đủ còn đưa tiễn Chạ Cẩm Hoàng đến tận Eo Dần, vừa đi họ vừa hát với nhau những lời hát lưu luyến tiễn biệt động viên nhau:
Cẩm Hoàng Án Đủ bao xa
Chỉ cách dải núi với ba quãng đồng
Về rồi, trai gái hai làng vẫn hò hẹn và gửi tin cho nhau, hẹn nhau đi chợ Mầu, đi lễ đền, chùa, hẹn lần sau gặp Chạ hát tiếp. Hai làng thật là thân thiết và rất mực tôn trọng nhau.
Trải theo thời gian, xã hội thay đổi, đời sống kinh tế phát triển, con người làm chủ được thiên nhiên. Tục kết Chạ khi xưa, có nhiều làng đến nay đã không được chú trọng. Nhưng ở làng Cẩm Hoàng, truyền thống tập tục tốt đẹp ấy vẫn được duy trì và phát huy với tình cảm sâu đậm. Làng Cẩm Hoàng, xưa thuộc tổng Quan Hoàng, sau thuộc xã Cẩm Minh, huyện Cẩm Thủy, Năm 1964, xã Cẩm Minh được nhập về huyện Vĩnh Lộc, đổi tên là xã Vĩnh Quang. Nằm bên bờ sông Mã phía Tây Bắc của huyện Vĩnh Lộc, Cẩm Hoàng là một làng thuần nông, ngoài đê là đất trồng lúa, phía trong đê là xóm làng với cánh bãi phù sa rộng lớn, thích hợp trồng cây mầu như ngô, lạc. Làng Cẩm Hoàng là nơi lắng đọng nhiều giá trị văn hóa truyền thống, làng có nguồn gốc từ hai làng cổ Giáp Hạ và Thái thôn hợp thành. Do bắt nguồn từ hai làng cổ nên làng Cẩm Hoàng còn lưu giữ được bản thần tích là Quản Gia Đô Bác Trịnh La (Ra), theo “Thanh Hóa chư thần lục” trong tỉnh Thanh Hóa có 71 nơi thờ ngài, huyện Vĩnh Lộc có 29 làng tôn thờ ngài là Thành Hoàng, được các triều vua sắc ban phong mỹ tự, ngày húy kị của ngài là 14 tháng 11, các làng đều làm giỗ. Nghè Cẩm Hoàng làm ở thời vua Tự Đức, nơi thờ tự các vị thần, nơi lưu giữ thần tích, thần sắc. Nghè Cẩm Hoàng được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1998, cấp đổi lại bằng năm 2012.
Khi xưa Tổng Quan Hoàng là miền đất giao thương giữa hai huyện Vĩnh Lộc và Cẩm Thủy. Nơi đây đã xuất hiện một loại chợ, đó là chợ tình, theo truyền thuyết từ xa xưa có một người con gái (Nàng Nga) là con của Lang Cun cai quản Mường Đủ (Thạch Thành). Nàng Nga đến chợ Quan Hoàng mở quán bán hàng, kén chồng để rồi yêu nhau cùng Hai Mối, làm nên một bản tình ca đẹp. “Chuyện tình Nàng Nga - Hai Mối” là một thiên tình sử thấm đẫm tình người. Quan Hoàng một thuở là thương trường buôn bán sầm uất, tiếng tăm dậy một cõi, có ảnh hưởng và tác động tích cực đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân Quan Hoàng nói chung, làng Cẩm Hoàng nói riêng. Việc làm của Nàng Nga, sau này đã tạo cho dân làng Cẩm Hoàng - Mường Đủ (Án Đổ) quen biết, gần gũi, thương yêu, quý trọng nhau, dẫn đến việc kết Chạ giữa hai làng. Trong kết Chạ mỗi khi hai làng có việc hội hè, tế lễ đều mời làng Chạ đến với nhau, cho dù:
Đường đi lau lách phất phơ
Tình thâm nghĩa nặng bao giờ cho quên.
Không đi thì nhớ thì sầu
Đi ra cách trở Giếng Lau, Eo Dần.
 Lúc làng Chạ đến cũng như lúc ra về được đón rước, đưa tiễn một các chu đáo, nồng hậu và đầm ấm. Làng bố trí người đi đón khách Chạ từ Eo Dần cách xa làng vài cây số. Tình cảm gắn bó anh em giữa hai làng Cẩm Hoàng - Án Đổ đã được quan viên hai làng gửi gắm vào những vần thơ đậm nghĩa tình son sắt: Cánh hoa vàng, nhị hoa vàng/ Án Đổ lân lý, Cẩm Hoàng vạn niên.
Mối tình kết nghĩa anh em giữa làng Cẩm Hoàng với làng Tây Giai khi xưa cũng thật là sâu nặng. Hai làng coi nhau như anh em ruột, quy ước trai gái hai làng không lấy nhau, làng có giúp làng chưa có, coi công việc của làng anh em như công việc của làng mình. Năm Tự Đức thứ 10 - 1857, làng Tây Vệ (tức Tây Giai ngày nay) đã cung tiến cho làng Cẩm Hoàng làm ngôi nghè ba gian lợp tranh, rồi rước chân nhang từ đền Nhật Chiêu (Nhật Quang, xã Vĩnh Hòa) - nơi chôn cất Trịnh Ra về nghè để thờ và tôn làm Thành hoàng làng. Đến triều vua Khải Định (năm thứ 4), làng Cẩm Hoàng đã làm nghè mới bằng gỗ, lợp ngói. Làng Tây Giai đã cung tiến nhiều hiện vật có giá trị hiện vẫn còn như hương án, bệ thờ bằng đá, cột đá... Để các làng Quan Hoàng, Cẩm Hoàng có được những cái cống, bắc qua các hón nước, cho dân làng hàng ngày đi làm không phải lội qua, làng Tây Giai đã đục đẽo những tảng đá vuông vức, kéo lên làm cho hai làng bốn cái cống đá, hiện vẫn còn sử dụng. Làng Cẩm Hoàng thì vào rừng lấy gỗ kéo xuống giúp làng Tây Giai làm đình... Những sự kiện trên được ghi lại trong câu ca dao lưu truyền đến ngày nay: Cẩm Hoàng đánh gỗ Thung Bô/ Tây Giai kéo đá qua hồ đưa lên.
Hàng năm, vào ngày 6 tháng hai âm lịch, đây là lễ hội Kì Phúc, hay là ngày kị thần 14-11, là một ngày lễ lớn của làng, với lòng kính trọng Thành Hoàng làng và các bậc tiền nhân đã có công khai cương lập ấp, cầu mong Thần độ trì cho con dân của làng tứ thời bát tiết bình an vô sự, mùa màng bội thu, người người no ấm. Những ngày này cảnh sắc trong làng thật tưng bừng, náo nhiệt, nơi đình, nghè hương trầm thơm ngát, đèn nến sáng trưng, những dãy cờ ngũ sắc phần phật tung bay. Lễ rước kiệu trang nghiêm, tàn lộng màu sắc rực rỡ, âm thanh trống chiêng rộn rã. Độc đáo trong lễ hội, ngoài phần lễ còn có diễn xướng múa hát chèo chải của làng Cẩm Hoàng, 12 cô thôn nữ xinh tươi duyên dáng, yếm đào váy lĩnh, thành thục trong điệu múa: Múa hát chúc mừng, múa hội thái bình dâng Thánh, hoàng đồ cung cố, múa dầm chèo, múa quạt, múa cờ (chèo cờ), múa uốn tay (chèo cạy), múa khăn (đánh đồng), chống sào, múa đội đèn, có lời hát và tiếng đàn phụ họa trong múa đội đèn: ... Cung đàn tỳ bà khen ai khéo gảy/ Tang tình tang, tính tình tang/ Trời Nam khai sáng/ Chúa ngự ngai vàng/ Hội chèo xin bái tạ Thánh Vương.
Trong ngày lễ hội Kỳ Phúc, các làng Chạ hân hoan gặp nhau, ôn lại quá khứ khó phai mờ, chúc nhau những điều tốt đẹp và hát đối đáp với nhau, đây là hình thức hát tiếp Chạ, giữ Chạ. Mừng quý Chạ Cẩm Hoàng dân làng Tây Giai hát: 
Nay mừng quý Chạ Cẩm Hoàng
Khen thầy địa lý tạ đàng ra sông,
Dưới thời sông
Trên thời bãi cát
Đường vào làng lát đá vân vi
Đầu làng có hai con trì
Bên thì thả cá bên thì trồng sen...
Đáp lại sự mến mộ của Tây Giai, Chạ Cẩm Hoàng hát Chúc:
Nay mừng quý Chạ Tây Giai
Thị thành đô hội lại là Kinh đô
Đất Kinh đô, đất vua Hồ
Đông Nam Văn chỉ, đồng, hồ cũng xinh
Bên chùa bên chợ phân minh
Đôi bên đi lại thắm tình cả đôi,
Cẩm Hoàng Đánh gỗ Thung Bô
Tây Giai kéo đá qua hồ đưa lên
Đưa lên cung phụng việc thờ
Có đôi hương án phụng thờ khói nhang.
Thắm tình đậm nghĩa cao sang
Ghi sâu tâm khảm dạ càng sắt son...
Với làng Chạ Án Đổ (Đủ):
Trèo lên cái núi Eo Dần
Trông về Chạ Đủ coi gần hay xa.
            
Đường đi lau lách phất phơ
Tình thâm nghĩa nặng bao giờ cho quên
Không đi bụng nhớ dạ sầu
Đi ra cách trở Giếng Lau, Eo Dần.
       
Chúc mừng làng Chạ ta nay
Quan viên viễn cách, nay rày tương ân
Đôi bên kết nghĩa giao lân
Thiên trường địa cửu Thánh Quân độ trì
Dẫu rằng cách biệt chi chi
Muôn dặm nghĩa thắm, tình ghi đá vàng
Cánh hoa vàng nhị hoa vàng
Án Đổ lân lý, Cẩm Hoàng vạn niên
Nay mừng Án Đổ một lòng
Xa xôi đường dặm mà lòng không xa 
Chữ rằng nhất vãng nhất lai
Cẩm Hoàng, Án Đổ một hai kết nguyền...
Đáp lại sự thịnh tình của Chạ Cẩm Hoàng, các làng Chạ cũng mang đến và trình diễn nhiều tiết mục múa hát không kém phần đặc sắc như hát Đúm, hát Trống quân của làng Tây Giai, Hát Séc bùa, Xường, Đang của Án Đổ, những lời ca điệu múa của các Chạ anh em càng tăng thêm không khí tưng bừng trong ngày lễ hội làng. Để cảm ơn sự quan tâm về tinh thần và vật chất của Chạ Tây, Chạ Án, làng Cẩm Hoàng có lời chúc:
... Mừng Xuân xin chúc mọi người
Ấm no hạnh phúc vui tươi rộn ràng
Tây Giai - Án Đổ - Cẩm Hoàng
Tình sâu nghĩa nặng muôn vàn yêu thương.
 Năm 2006, làng Cẩm Hoàng đã khôi phục lại phần hát múa chèo chải trong lễ Kỳ Phúc của làng. Lễ hội hàng năm của làng Cẩm Hoàng, đều có Chạ Tây, Chạ Án đến dự, tình cảm vẫn nồng ấm như xưa và mỗi khi làng Tây Giai, Án Đổ mở hội làng, thì Cẩm Hoàng cũng đến dự chia vui, tình nghĩa keo sơn, mỹ tục tốt đẹp ấy luôn được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân làng Cẩm Hoàng gìn giữ và phát huy, tăng thêm sức mạnh, xây dựng quê hương ngày càng ấm no, hạnh phúc.
                                                                                       N.H.M

Viết theo lời kể của cụ Phạm Hữu Lực, nguyên là Trưởng phòng Văn hóa huyện Cẩm Thuỷ, người làng Cẩm Hoàng (xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Lộc). Cụ Nguyễn Đình Yến 100 tuổi, người làng Án Đổ (Thạch Bình, Thạch Thành). Và tư liệu lịch sử địa phương.


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 173
 Hôm nay: 6224
 Tổng số truy cập: 13320899
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa