Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /     /   Khí phách lẫm liệt sĩ phu Nam Kỳ: Thủ Khoa Huân (Ký)
Khí phách lẫm liệt sĩ phu Nam Kỳ: Thủ Khoa Huân (Ký)


PHAN HOÀNG

Khí phách lẫm liệt sĩ phu Nam Kỳ: Thủ Khoa Huân

Tháng 5 chuyển hạ hàng năm Tiền Giang luôn chuẩn bị cho lễ hội lớn. Năm nay về vùng đất thiêng này trong không khí kỷ niệm 150 năm ngày Anh hùng dân tộc Nguyễn Hữu Huân hy sinh vì nghĩa lớn, dâng hương tưởng nhớ tiền nhân, hình ảnh vị lãnh tụ khởi nghĩa cùng bao tướng sĩ anh hùng của đất phương Nam như vẫn thấp thoáng đâu đây. 
Được sự hướng dẫn của nhà thơ Trương Trọng Nghĩa, chúng tôi đến thăm tượng đài Thủ Khoa Huân ở Mỹ Tho rồi về Chợ Gạo viếng đền thờ ông. Tên thật là Nguyễn Hữu Huân sinh năm Canh Dần 1830 tại làng Tịnh Hà, huyện Kiến Hưng, phủ Kiến An, tỉnh Định Tường (nay thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang), từ thuở nhỏ ông nổi tiếng thông minh, hiếu học và nghĩa hiệp. Năm Nhâm Tý 1852, dưới triều vua Tự Đức nhà Nguyễn, ông đã đỗ Thủ khoa kỳ thi Hương tại trường thi Gia Định, đứng đầu bảng danh sách Cử nhân. Từ đó xuất hiện biệt danh Thủ Khoa Huân.
Ba lần dựng cờ khởi nghĩa và bị đi đày biệt xứ
Ba tháng sau khi Pháp tấn công thành Gia Định năm 1859, Nguyễn Hữu Huân chiêu mộ nghĩa binh cùng với các sĩ phu yêu nước chống giặc, được triều đình phong chức Phó Quản đạo. Ông đã chỉ huy chặn đánh quân Pháp đang tiến chiếm tỉnh Định Tường qua kênh Bảo Định vào tháng 4-1861. Thủ Khoa Huân phối hợp với Phủ Cậu Trần Xuân Hòa tạo thành lực lượng mạnh ở Chợ Gạo, Định Tường đương đầu với giặc.
Ngay sau đó, triều đình cử Biện lý Bộ binh Đỗ Thúc Tĩnh làm Khâm phái quân vụ vào mộ nghĩa dũng các tỉnh Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên để chống Pháp. Thủ Khoa Huân đã đem lực lượng gia nhập và đóng quân tại căn cứ Mỹ Quý cầm cự với đối phương 57 ngày đêm. Căn cứ Mỹ Quý thất thủ, lực lượng nghĩa quân tan rã, kết thúc giai đoạn kháng chiến chống Pháp lần thứ nhất (1859-1861) của lãnh tụ Nguyễn Hữu Huân.
Hòa ước Nhâm Tuất ký ngày 05-6-1862, triều đình Huế cắt giao cho Pháp ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường. Không nhượng bộ như triều đình hèn yếu, sĩ phu và nhân dân khắp Nam Kỳ đã đứng lên chống giặc. Họ tôn Trương Định làm Bình Tây Đại Nguyên soái, xây dựng căn cứ địa Tân Hòa tại Gò Công. Thủ Khoa Huân mang toàn bộ lực lượng gia nhập nghĩa quân Trương Định và được phong chức Phó Đề đốc. Ngày 17 và 18-2-1862, các lực lượng nghĩa quân đã khởi đầu đồng loạt tấn công quân Pháp ở Thuộc Nhiêu, Gò Cây Mai, Phước Tuy, Long Thành,… và thu được thắng lợi vang dội. Nguyễn Hữu Huân trực tiếp chỉ huy mặt trận từ Tân An đến Mỹ Tho, gây cho giặc nhiều tổn thất.
Đầu năm 1863, căn cứ Tân Hòa thất thủ trước sự tập trung lực lượng tấn công của quân Pháp. Trương Định rút quân về đóng ở Rừng Sác - Lý Nhơn, nay thuộc huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh. Thủ Khoa Huân thì đưa quân về Bình Cách, giáp giới Tiền Giang và Long An hiện nay, và trực tiếp chỉ huy nghĩa quân Định Tường. Quân Pháp lại tấn công Bình Cách, sau những trận đánh ác liệt không cân sức, Thủ Khoa Huân rút quân về Thuộc Nhiêu tiếp tục chiến đấu. Nghĩa quân lưu động đánh Pháp nhiều trận ở Cái Bè, Cai Lậy, Rạch Gầm, Trung Lương,… 
Cuối năm 1863, quân Pháp lại tập trung lực lượng tấn công căn cứ Thuộc Nhiêu, buộc nghĩa quân phải rút vào Đồng Tháp Mười. Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân liên kết với Thiên hộ Võ Duy Dương thống nhất hành động. Theo đó, Võ Duy Dương lãnh đạo căn cứ Đồng Tháp Mười, còn Nguyễn Hữu Huân sang An Giang liên kết với thủ lĩnh khởi nghĩa người Khmer của Chân Lạp là Acha Xoa chống Pháp và chỉ huy cuộc vận động quyên góp ủng hộ nghĩa quân.
Phát hiện Thủ Khoa Huân đang hoạt động ở An Giang, thực dân Pháp gửi thư gây áp lực với Tổng đốc Phan Khắc Thuận phải bắt ông giao nộp. Nhận thấy Tổng đốc Phan Khắc Thận chưa thuận, Pháp liền phái 500 quân cùng nhiều đại bác từ Oudong bên Chân Lạp sang đe dọa tấn công An Giang. Trước sức ép, Phan Khắc Thận buộc phải cho bắt Nguyễn Hữu Huân. Chính quyền thực dân chuyển ông lên giam ở Sài Gòn, kết án tù khổ sai 10 năm và đày đi Cayenne, một hòn đảo ở vùng biển Trung Mỹ xứ Guyane thuộc địa của Pháp. Đây cũng là thời điểm kết thúc giai đoạn kháng chiến chống Pháp lần thứ hai (1862-1864) của Nguyễn Hữu Huân.
Bằng sức mạnh vũ khí, thực dân Pháp lần lượt đánh tan hầu hết các cuộc khởi nghĩa của sĩ phu và nông dân ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, dựng lên chính quyền bù nhìn, sử dụng bổ nhiệm một số người bản xứ có học thức. Sau 5 năm bị đày biệt xứ, Nguyễn Hữu Huân được Pháp ân xá đón về Chợ Lớn ở tại nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, một bạn học của ông thời thơ ấu, rồi cử ông làm giáo thụ dạy dỗ con em các quan chức. Pháp hy vọng sẽ thuyết phục ông phục vụ cho chính quyền thuộc địa, đồng thời qua trường hợp của ông nhằm khuyến dụ, răn đe những sĩ phu yêu nước còn bất hợp tác với Pháp và chiêu dụ đồng bào.
Mưu đồ của thực dân Pháp và tên Việt gian Đỗ Hữu Phương không qua mắt Thủ Khoa Huân. Tương kế tựu kế, bề ngoài ông ra vẻ khuất phục, chăm chỉ làm việc, nhưng qua những buổi giảng dạy ông đã bí mật tìm cách liên lạc với những người yêu nước. Sau ba năm bị giam lỏng, quản thúc tại nhà ông “bạn vàng” Tổng đốc Phương ở Chợ Lớn, Thủ Khoa Huân đã bỏ trốn về Tân An, Mỹ Tho hợp lực cùng một số nhân sĩ yêu nước chuẩn bị lực lượng kháng chiến.
Năm 1873, tại quê hương Chợ Gạo, Nguyễn Hữu Huân cùng nghĩa quân đã phất cờ khởi nghĩa chống Pháp lần thứ ba. Rút kinh nghiệm của Trương Định và những cuộc khởi nghĩa trước, ông tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền kháng chiến cấp thôn xã ở các địa bàn Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn. Phong trào chống Pháp của Thủ Khoa Huân nhanh chóng lan ra khắp các tỉnh, nhận được sự hưởng ứng của thủ lĩnh nghĩa quân ở các địa phương. Nhưng một năm sau, ngày 15 tháng 3 năm 1874, triều đình Huế đã ký Hòa ước Giáp Tuất công nhận toàn bộ Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp. Tình hình vô cùng bất lợi. Thủ Khoa Huân nhận thấy muốn đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Nam Kỳ chỉ có thể bằng thực lực chính mình chứ không còn trông mong chút gì ở triều đình. Ông về quê bán hết ruộng đất của gia đình, vận động quyên góp thêm trong nhân dân để mua vũ khí. 
Gần cuối năm 1874, Thủ Khoa Huân liên kết với Tri huyện Âu Dương Lân huy động lực lượng chiếm giữ Bình Cách. Các thủ lĩnh như Nguyễn Văn Chất ở Vĩnh Long, Lê Công Thành, Lâm Lễ ở Cần Thơ kéo quân về tham gia. Phong trào kháng chiến dưới cờ lãnh tụ Thủ Khoa Huân diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nơi. Trước mối đe dọa ấy, Pháp đã huy động một lực lượng hùng hậu tấn công căn cứ Bình Cách từ nhiều hướng. Cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt. Vì thế giặc quá mạnh, ông phải rút lui về Chợ Gạo. Cuối cùng, do tên Đốc binh Hương phản bội chỉ điểm, Đốc phủ Trần Bá Lộc đã bí mật mang quân bất ngờ vây bắt Thủ Khoa Huân đưa về giam ở ngục Mỹ Tho ngày 15 tháng 5 năm 1875, trong khi phó tướng Âu Dương Lân hy sinh tại trận tiền.
Cái chết lẫm liệt của vị anh hùng huyền thoại
Sa vào tay giặc lần thứ ba, Thủ Khoa Huân tiếp tục bị chúng dụ hàng bằng danh lợi, chức tước. Tỉnh trưởng Mỹ Tho De Gailland cùng Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, Đốc phủ Trần Bá Lộc lần lượt thuyết phục nhưng không lay được ý chí ông. Linh cảm biết giặc lần này sẽ không để mình sống, Thủ Khoa Huân nhắn vợ con gửi vải đỏ vào ngục cho ông để viết “liễn” tuyệt mệnh.
Chính quyền thực dân Pháp không khuất phục được Thủ Khoa Huân và thừa biết nếu để ông sống thì nhất định có ngày ông sẽ đánh đuổi chúng. Ngày rằm tháng tư năm Ất Hợi, nhằm ngày 19-5-1875, Pháp đưa ông xuống tàu thủy chở theo dòng Bảo Định Giang về Mỹ Tịnh An, Chợ Gạo để hành quyết vào lúc 12 giờ trưa chính Ngọ. Pháp dự định biến cuộc xử tử vị lãnh tụ khởi nghĩa thành mối hù dọa đầy sợ hãi cho dân chúng. Thế nhưng Thủ Khoa Huân không cho chúng thực hiện mưu đồ. Khi trên tàu cũng như trước pháp trường, ông luôn tỏ ra bản lĩnh can trường, đọc sang sảng thơ tuyệt mệnh đầy khí phách như đã viết trên vải từ trong ngục: 
Hữu chí nan thân, không uổng bách niên chiêu vật nghị
Tuy công bất tựu, diệc tương nhất tử báo quân ân.
Tạm dịch: 
Có chí khó giương ra, luống để trăm năm mang miệng thế
Dầu công không đạt được, cũng liều một chết báo ơn vua. 
Theo nhà nghiên cứu Võ Phúc Châu, tương truyền lúc đưa Thủ Khoa Huân ra pháp trường, bọn giặc bưng tới một mâm cơm đầy rượu thịt cho ông ăn. Ông cự tuyệt đá đổ mâm cơm văng vung vãi. Đao phủ là một người địa phương biết về ông. Lúc lệnh chém ban ra, tên đao phủ sợ hãi chần chừ không dám huơ đao lên. Thủ Khoa Huân nhìn hắn ôn tồn bảo: “Nhà ngươi có bổn phận, cứ việc thi hành, đừng để liên lụy đến mình”. Tên đao phủ nghe vậy mới dám đưa đao lên. Và vừa chém xong thì hắn liền quỳ sụp xuống lạy ông bốn lạy, miệng lầm rầm khấn. Năm ấy ông mới vừa tròn 45 tuổi.
Hành quyết Thủ Khoa Huân xong, Pháp chỉ cho gia đình mang phần thân thể ông về, còn đầu thì bị bêu tại chỗ, sau ba ngày mới được an táng. Năm giờ chiều hôm ấy, một cô con gái ông mặc áo dài đến pháp trường thăm chừng. Bất ngờ, một người lính Pháp đã lấy đầu Thủ Khoa Huân đưa trả cho cô. Con gái ông vội vàng dùng hai tay nâng vạt áo dài, hứng đầu cha mình ôm mang về nhà và gia đình tổ chức an táng đầy đủ thân thể rồi lập mộ cho ông.
Bên cạnh sự nghiệp lãnh đạo kháng chiến, Thủ Khoa Huân còn sáng tác thơ ca, tuy không nhiều nhưng khá đặc sắc, thể hiện lòng yêu nước và những tâm sự trước thời cuộc. Ngoài hai câu “Liễn tuyệt mệnh” ông viết trong ngục Mỹ Tho trước khi mất, hiện được treo trang trọng tại bàn thờ ông ở Mỹ Tịnh An, còn có các bài thơ “Tặng vợ” làm lúc bị Pháp bắt lần đầu, “Tự thuật” viết khi bị đày sang quần đảo Guyan, cùng nhiều bài khác như: Bửa củi, Cảm hoài, Thuật hoài, Hò khoan ca,... Và đây là bài thơ ông viết khi đi đày, tự khuyên nhủ mình vượt qua nghịch cảnh nuôi lấy ý chí chiến đấu vì sự nghiệp cứu nước: 
Thôi! Bình tâm, cứ bình tâm nhé!
Gắng cơm đi, chớ để nản lòng
Nhớ rằng chỉ bá với tòng
Lá xanh chịu hết nghiêm đông mới tàn
Trời sắp đặt gian nan đủ thứ
Xem thử ta xoay sở thế nào
Vì chứng vận nước lao đao
Xanh kia há để ta sao chẳng về.
(Trích bản dịch Hò khoan ca, Phạm Thiều).
Hiện nay đền thờ và mộ Anh hùng dân tộc Nguyễn Hữu Huân được xây dựng khá khang trang nằm ở ấp Hòa Quới, xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia vào tháng 6-1987. Thuở ban đầu, hai người con gái của ông là Nguyễn Thị Vạn và Nguyễn Thị Tánh đứng ra lập mộ trên một gò nhỏ, mộ được đắp bằng đất, về sau xây lại bằng đá xanh theo kiểu voi phục với tấm bia khá lớn có chạm khắc câu đối và bài thơ tuyệt mệnh của ông. Đồng thời, một tượng đài Thủ Khoa Huân bằng đá hoa cương, cao hơn 7m, phần đế cao 4m, đặt tại trung tâm thành phố Mỹ Tho nơi ngã ba sông Mỹ Tho với Bảo Định. Tượng đài do nhà điêu khắc hàng đầu Nguyễn Hải thiết kế, thể hiện khí phách can trường của Thủ Khoa Huân, đứng sừng sững giữa không gian thơ mộng, trở thành biểu tượng hào hùng và quật khởi của nhân dân đất này.
                                    P.H


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 161
 Hôm nay: 6618
 Tổng số truy cập: 14713596
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa