Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /     /   Chuyện về những người có uy tín ở bản Mông nơi biên giới Kỳ 2: Người gieo hạt giống mùa xuân (Bút ký)
Chuyện về những người có uy tín ở bản Mông nơi biên giới Kỳ 2: Người gieo hạt giống mùa xuân (Bút ký)

QUỲNH THƠM

Chuyện về những người có uy tín ở bản Mông nơi biên giới
Kỳ 2: Người gieo hạt giống mùa xuân

Bút ký

Tháng Tám, miền biên giới oằn mình trong màn mưa nguồn nặng trĩu. Núi rừng rung chuyển. Con suối Sơ Lước vốn hiền hòa bỗng hóa hung dữ, cuồn cuộn lũ đục ngầu ầm ào tràn qua bản Mùa Xuân. Những mái nhà gỗ nép dưới thung lũng chao đảo, ánh đèn dầu chập chờn như sắp tắt lịm. Tiếng người gọi nhau thất thanh lẫn trong tiếng khóc trẻ thơ, tiếng trâu bò rống dài. Giữa hỗn loạn ấy, một bóng người nhỏ bé lao đi trong mưa. Quần áo ướt sũng, chân trượt trên đất bùn nhưng giọng hô hoán vang rền át cả tiếng lũ. Đó là Thao Văn Dia - người đảng viên Mông gan góc. Anh gõ cửa từng nhà, dìu cụ già, bế trẻ nhỏ, thúc giục bà con men theo sườn núi tìm chỗ cao an toàn trú ẩn. Có mái nhà vừa kịp theo bước chân anh mà thoát, chỉ ít phút sau đã chìm nghỉm trong dòng nước dữ… Đêm ấy, bản Mùa Xuân không tránh khỏi mất mát, đau thương. Nhưng trong khốn cùng, hình ảnh Dia càng sáng rõ: nhỏ bé mà kiên cường, day dứt nhưng đầy trách nhiệm. Với bà con, Dia không chỉ giữ bản qua cơn hoạn nạn, mà còn gieo vào từng nếp nhà niềm tin và hy vọng.
Hơn năm năm đã trôi qua, ký ức ấy vẫn còn nguyên vẹn. Người dân bản Mùa Xuân bảo nhau: “Dia không chỉ cứu dân khỏi lũ, mà còn đưa bản thoát khỏi đói nghèo, hủ tục. Có Dia, bản như giữ được mùa xuân ở lại”. Với họ, Dia là mạch nguồn ấm áp chảy qua từng mái nhà, là ngọn lửa bền bỉ nuôi dưỡng khát vọng vươn lên. Từ Dia, mùa xuân không chỉ dừng ở một địa danh, mà đã trở thành biểu tượng của sức sống mới, của khát vọng đổi thay nơi rẻo cao biên giới - nơi núi còn dốc, rừng còn thẳm, nhưng lòng người thì đã rộn ràng ánh sáng ngày mai.
Từ tuổi thơ gian khó đến lý tưởng Đảng
Ở miền biên viễn xa xôi, nơi bão lũ thường xuyên ghé thăm, cuộc sống dẫu nhiều cơ cực vẫn ánh lên hy vọng, hun đúc niềm tin nơi mỗi người dân bản. Tuổi thơ Thao Văn Dia gắn liền với những cơn lũ quái ác - những đêm mưa gió rít qua mái nhà tranh, tiếng nước suối cuộn xoáy trên triền núi, nhấn chìm nương rẫy và thử thách từng bước chân nhỏ bé. Dia đã học cách quan sát, lắng nghe và hiểu từng dấu hiệu của rừng núi, để biết khi nào phải che chắn, khi nào phải chạy lánh. Những trải nghiệm ấy hun đúc trong cậu bé nghị lực và lòng dũng cảm, dẫn dắt những bước chân đầu đời vượt rừng núi, gieo hy vọng và lý tưởng.
Thao Văn Dia (sinh năm 1983) là người dân tộc Mông, sinh ra ở huyện Mường Lát (cũ). Tuổi thơ Dia gắn liền với tiếng lá rừng xào xạc trong những đêm dài, tiếng suối chảy róc rách, và những ngày tháng cơ cực theo cha mẹ di cư từ vùng đất cũ sang xã Sơn Thủy, lập bản mới giữa miền núi cao heo hút. Mỗi bước chân băng rừng, lội suối là một lần thử thách sức lực, là một lần nếm trải nhọc nhằn của đời sống nơi rẻo cao. Vùng đất mới ấy, bản mới mang tên Mùa Xuân, như một niềm hy vọng của cả một đời người: hy vọng về mái nhà vững chãi, về bữa cơm no đủ, về mùa xuân của sự sống và niềm tin vào ngày mai tươi sáng, nơi từng ước mơ tưởng chừng mong manh lại có thể đâm chồi, nảy lộc.
Những ngày bản Mông mới lập, cuộc sống còn phủ mờ trong lớp sương nghèo khó. Cả bản quanh năm chỉ biết bám nương, bám rẫy, vật lộn với cái ăn từng bữa. Trẻ con ít đứa được cắp sách tới trường, phần vì miếng cơm manh áo, phần vì hủ tục lạc hậu vẫn đeo bám dai dẳng trong đời sống. Tuổi thơ của Dia cũng hằn dấu vết lam lũ ấy. Sớm theo mẹ lên nương, chiều theo cha vào rừng hái măng, lội suối bắt cá, đôi chân cậu bé chai sần theo từng bước dốc dựng đứng. Đói rét, vất vả, nhưng ánh mắt Dia vẫn trong veo, khao khát một điều gì xa hơn những triền núi trập trùng.
Trong ngôi nhà tranh xiêu vẹo, cha mẹ Dia - dù phải nuôi tám đứa con thơ - vẫn gắng gỏi dành cho Dia con đường đến lớp, bởi họ sớm nhận ra cậu con trai thông minh, sáng dạ. Và họ hiểu chữ nghĩa không chỉ là kiến thức, mà còn là lối mở đưa con mình thoát khỏi cái vòng quẩn quanh đói nghèo, tăm tối. Khi Dia xếp vài bộ quần áo cũ vào gùi và đùm theo nắm cơm nếp, mẹ cậu trầm giọng dặn dò, như gửi gắm cả ước mơ của đời mình: “Con đi học chữ, nhớ mang chữ về cho bản. Chữ là con đường thoát nghèo, thoát khổ. Nhớ, không được bỏ cuộc giữa đường”.
Dia ghi nhớ lời mẹ, bước chân thêm chắc chắn. Cậu học bán trú ở trường cách nhà mười sáu cây số. Mỗi tuần, cậu lội qua những con suối cuồn cuộn, trèo dốc đá, băng qua rừng gai cào, đôi tay thâm nứt vì lạnh, vai run khi gùi bao gạo nặng trĩu. Nhưng ánh mắt Dia luôn sáng lên, gương mặt kiên định, cậu mím môi mà bước, như truyền sức mạnh vào từng bước chân, khiến khó khăn cũng phải nhường bước. Tiếng suối róc rách, lá xào xạc, chim rừng líu lo như nhịp đệm cho bước chân cậu bé.
Mỗi ngày đến lớp, từng trang sách, từng bài học hun đúc ước mơ. Với Dia, con chữ không chỉ là kiến thức mà là chìa khóa mở ra cánh cửa tương lai, là ngọn đèn soi rọi hy vọng cho cả bản Mông. Hình ảnh đồng bào sống lay lắt, trẻ em chân đất đi học, mái nhà tranh ọp ẹp trở thành động lực để cậu nỗ lực, để con chữ có thể thay đổi số phận.
Cuối tuần, Dia lại băng rừng, lội suối trở về nhà, ghé thăm các gia đình khó khăn, nhắc nhở trẻ con học chữ. Nhìn từng nếp nhà, từng vạt rẫy, từng con suối, cậu thấy niềm tin kiên định trong tim. Mỗi bước đi, từng giọt mồ hôi hun đúc ý chí bền bỉ, nghị lực kiên cường và tình yêu bản làng, chuẩn bị cho ngày trở về mang theo kiến thức và ước mơ thay đổi cuộc sống đồng bào.
Học hết lớp 12, Dia trở về phụ giúp gia đình lên rừng kiếm củi, khai phá đồi hoang trồng sắn, gieo ngô trên những sườn đất dốc. Với sức trai vạm vỡ, Dia đạp băng đá sỏi, vượt qua gai cào, bảo vệ từng tán rừng Nhà nước giao. Bụi đất bám đầy quần áo, chân trầy xước, mồ hôi nhễ nhại, nhưng trong lòng Dia vẫn rộn rã một niềm tin kiên định. Dia mang theo kiến thức, nhiệt huyết và khát vọng phục vụ bản làng, từng bước gieo hy vọng vào nương rẫy, vào đời sống đồng bào.
Không chỉ chăm lo lao động, Dia tích cực tham gia các phong trào, kiên nhẫn vận động bà con xóa bỏ hủ tục, đón nhận cái mới, cái tiến bộ, đón nhận những bước tiến trong đời sống. Bằng sự chân thành và uy tín của mình, năm 2003, khi vừa tròn hai mươi tuổi, Thao Văn Dia được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng. Ngày nhận tấm thẻ đỏ trong tay, Dia thầm hứa với mẹ: “Con sẽ không để bản mình còn đói, còn khổ như ngày trước nữa”. Niềm hãnh diện pha lẫn trách nhiệm khiến tim Dia như nặng trĩu, nhưng ánh mắt rực sáng khi nhìn về bản Mùa Xuân.
Từ đó, bước chân Dia gắn bó mật thiết với từng nếp nhà, vạt nương, bờ suối của bản Mùa Xuân. Suốt 19 năm (2003-2022), Thao Văn Dia được bà con tin tưởng bầu vào nhiều vị trí khác nhau: Phó bản, Công an viên, Trưởng bản, Bí thư Chi bộ, rồi Bí thư kiêm Trưởng bản. Đảm nhận bất cứ trọng trách nào, Dia luôn dồn trọn tâm sức để phục vụ quê hương, trở thành cầu nối giữa chính quyền và nhân dân, vận động xóa bỏ hủ tục, chuyển đổi canh tác và củng cố niềm tin của đồng bào vào Đảng. Từng quyết định, từng hành động của anh đều thấm đẫm tình yêu bản làng, tinh thần trách nhiệm và khát vọng mang đổi thay đến bản làng nơi biên giới xa xôi, hẻo lánh này.
Trong ánh mắt người Mông ở bản Mùa Xuân, Dia không chỉ là người lãnh đạo, là người có uy tín của bản mà còn là biểu tượng của nghị lực, hy vọng và sự đổi thay. Mỗi bước đi, lời nói, hành động của Dia như nhịp cầu nối quá khứ với hiện tại, gieo hạt mầm vào lòng đất núi rừng, để bản làng từng ngày thêm rực rỡ, tươi mới cùng mùa xuân.
Gieo mầm xuân, vun mùa ấm nơi bản Mông
Bản Mùa Xuân, xã Sơn Thủy, là một trong những bản xa xôi, khó khăn nhất của huyện biên giới Quan Sơn (cũ). Trước đây để đến được bản, người ta phải vượt qua những con đường độc đạo, ngoằn ngoèo như sợi dây thừng mảnh, gió rít, sương dày, như núi rừng muốn thử thách mọi bước chân. Suốt nhiều năm, Mùa Xuân được xem là bản nghèo nhất tỉnh Thanh Hóa: không điện, không đường, không trường, không trạm, không sóng điện thoại… và còn quá nhiều cái “không” len lỏi trong từng mái nhà. Bữa cơm khi no khi đói, manh áo mỏng chẳng đủ che sương, trẻ thơ hiếm khi đến lớp, tiếng cười cũng hiếm hoi vang lên giữa núi rừng. Hủ tục bủa vây, trong khi tà đạo ngấm ngầm luồn lách tìm cách lừa phỉnh, “ru ngủ” người dân, khiến họ thờ ơ với phong trào chung, ngoảnh mặt trước những chính sách, dự án phát triển kinh tế của địa phương. Không gian mênh mông khi ấy dường như chỉ còn tiếng gió quẩn quanh vách đá, tiếng lá rừng xào xạc hòa cùng nỗi lo cơm áo.
Trong bức tranh ảm đạm ấy, cái đói nghèo, lạc hậu bủa vây bản làng như lớp sương mù dày đặc, khiến Thao Văn Dia nhiều đêm trằn trọc, nghĩ cách tìm một con đường sáng cho đồng bào mình. Dia hiểu rằng, làm gì cũng phải được lòng dân, phải đặt lợi ích của bà con lên trên hết. Từ những bước đi lặng lẽ mà kiên trì, Dia dần trở thành nhịp cầu tin cậy của bản làng, mang khát vọng và nguyện vọng chính đáng của bà con gửi tới xã, để tiếng nói của Mùa Xuân không bị bỏ quên giữa đại ngàn.
Dia đề xuất không trao tiền bạc cho người nghèo, mà trao những hạt giống, cây con, con giống - những mầm sống thực sự gieo niềm hy vọng. Dia tiên phong vận động bà con trồng lúa nước. Khi nhiều người còn ngờ vực, Dia đi từng nhà kiên nhẫn giải thích: “Lúa nước năng suất hơn, thu hoạch đều, đời sống sẽ no hơn”. Không chỉ nói, anh cùng gia đình khai khẩn những thửa ruộng bậc thang đầu tiên, tự tay dẫn nước từ khe suối về ruộng. Từng giọt nước róc rách chảy vào đất như trao sự sống cho từng cây lúa. Mùa gặt về, những bông lúa vàng óng, căng mẩy, hương đồng lan tỏa khắp bản - minh chứng cho niềm tin và nỗ lực. Từ đó, nhà nọ nối nhà kia học theo, cải tạo đất, gieo trồng, chăn nuôi, từng bước thay đổi diện mạo bản làng.
Giờ đây, trên nấc thang mùa vàng, hơn 6ha lúa nước trải dài dưới nắng sớm; dưới chân núi, hơn trăm con trâu, gần ba trăm con bò nhẩn nha gặm cỏ; đàn lợn hàng trăm con, gia cầm hàng ngàn con làm rộn rã bản Mông. Trên nương, ngô, sắn, mận xanh mướt, dứa mật ngọt lịm, khoai mán bám đất dẻo thơm, trải dài theo triền đồi… Tất cả hòa vào nhau, thành bức tranh trù phú, minh chứng cho một mùa ấm đã thực sự hiện hữu nơi biên viễn. Và phía sau gam màu no đủ ấy, có dấu ấn lặng thầm của Thao Văn Dia - người gieo niềm tin, vun trồng đổi thay.
Không chỉ gắn mình với ruộng nương, Dia còn cùng vợ mở một quán tạp hóa nhỏ ngay đầu bản. Quán be bé thôi, nhưng như đốm lửa ấm giữa đại ngàn. Trên những chiếc kệ gỗ xếp ngay ngắn, từ mắm muối, dầu đèn, mì tôm… đến bánh kẹo cho lũ trẻ đều đủ cả. Bà con đi nương, về chợ đều ghé qua, gọi vui đó là “siêu thị” của bản. Trong góc quán nhỏ, tiếng trẻ con ríu rít khi mua kẹo, tiếng chuyện trò của người già khi đổi gói muối, chai nước mắm, xen lẫn lời khuyên nhủ của Dia cho ai muốn thử cách làm mới… Tất cả chan hòa, thành nhịp sống mới nơi rẻo cao. Quán tạp hóa ấy không chỉ giúp gia đình Dia thêm thu nhập, mà còn trở thành chốn gặp gỡ, nơi niềm tin và tình làng nghĩa bản được nhóm lên, lan đi như hơi ấm bếp lửa giữa mùa đông nơi rẻo cao biên giới.
Và sự đổi thay ấy cũng không chỉ dừng lại ở chuyện cơm áo. Khi cái bụng đã no, cái áo đã ấm, bà con có điều kiện nhìn lại chính mình, từng bước rời xa những hủ tục đã đè nặng bao đời. Cách đây hàng chục năm, cưới hỏi, tang ma trong bản còn rườm rà, tốn kém, len lỏi khắp từng nếp nhà, trói buộc đời sống tinh thần người Mông. Hôn nhân cận huyết, tảo hôn, những nghi lễ kéo dài, chi phí tốn kém - tất cả từng là “cơn bão ngầm” mà dữ dội hơn cả lũ ngoài sông suối. Nó cứ bám riết đời sống Mùa Xuân, đè nặng lên nhận thức và tâm hồn con người. Nặng nề nhất là hôn nhân cận huyết - một thực tế tưởng như khó xóa bỏ. Trong cộng đồng người Mông, tập tục này tồn tại lâu đời, xuất phát từ mong muốn bảo vệ đất đai, gia sản và giữ gìn dòng họ trong những bản làng cô lập giữa núi rừng. Người ta tin rằng “con cô con cậu” cưới nhau sẽ gắn kết gia tộc, duy trì mối quan hệ huyết thống, và giữ gìn tài sản cho dòng họ. Thế nhưng thực tế, hủ tục ấy kéo theo nhiều hệ lụy nặng nề: trẻ sinh ra dễ mang dị tật bẩm sinh, sức khỏe yếu, gia đình dễ lâm vào cảnh khó khăn chồng chất. 
Ở Mùa Xuân hôm nay, nhờ sự kiên trì vận động của Dia cùng uy tín của những người có tiếng nói trong cộng đồng, bóng dáng hủ tục đã dần lùi xa, nhường chỗ cho nếp sống văn minh. Dấu ấn của Thao Văn Dia in đậm trên chặng đổi thay ấy: một đảng viên Mông tận tụy, thắp lên ánh sáng lý trí và lòng nhân ái trong từng nếp nhà. Già làng vẫn kể chuyện năm nào, khi một vụ hôn nhân cận huyết trong gia đình “con cô con cậu” khiến bản xôn xao. Lúc ấy, mới ngoài đôi mươi, giữ chức Phó bản, Dia đã khéo léo thuyết phục đôi trẻ dừng lại, cứu bản khỏi hệ lụy nặng nề.
Một buổi trưa nắng trải vàng trên những nương ngô, căn nhà gỗ cũ kỹ như nặng trĩu bầu không khí căng thẳng. Đôi trai gái đứng sát bên nhau, tay nắm chặt tay, ánh mắt rưng rưng nhưng kiên quyết. Họ muốn cưới nhau, bất chấp sự ngăn cấm của cha mẹ. Dù cha mẹ họ, mặt âu lo, miệng liên tục giảng giải, mắt ánh lên cả nỗi sợ lẫn bực dọc, nhưng trái tim đôi trẻ vẫn bùng lên khát khao được bên nhau.
Thao Văn Dia bước vào, lặng lẽ, ánh mắt nghiêm nghị nhưng ấm áp. Dia ngồi xuống, nhìn sâu vào đôi mắt non nớt nhưng chứa đầy quyết tâm: “Hạnh phúc không nên bắt nguồn từ nỗi đau của dòng họ. Chúng ta hãy tìm một hướng đi khác” - giọng Dia trầm vang, như tiếng suối chảy qua đá, vừa nghiêm túc vừa dịu dàng.
Dia không mắng mỏ, không thúc ép. Dia kể về những hậu quả của hôn nhân cận huyết: trẻ sinh ra yếu ớt, bệnh tật, dòng họ suy giảm sức sống. Dia ví von gần gũi với đời sống đồng bào: “Bà con thấy con trâu đấy, nếu nó giao phối với chính con cùng mẹ, nghé sinh ra sẽ yếu, chẳng cày nổi nương. Con người cũng vậy. Cận huyết sẽ làm giống nòi suy kiệt. Thương nhau thì càng phải nghĩ cho lâu dài, cho con cháu về sau”.
Đôi trai gái cúi đầu, lặng im. Họ biết mình đang đi ngược lại dòng chảy truyền thống, nhưng tình yêu thôi thúc trái tim. Nhìn đôi mắt rưng rưng của đôi trẻ, anh thấy cả nỗi đau và trách nhiệm của mình, nhưng lòng quyết không dao động. Suốt cả ngày hôm ấy, Dia kiên nhẫn dẫn dắt, phân tích từng lý lẽ, kể thêm những câu chuyện ở các bản khác để minh chứng hậu quả của hôn nhân cận huyết, nhấn mạnh: giữ tập tục quý, nhưng cái gì hại thì phải bỏ. Cuối cùng, đôi trẻ cũng lắng nghe và hiểu. Đôi trẻ nhận ra tình yêu chưa đủ sức chống lại nguy cơ của tương lai; chấp nhận lùi bước. Vụ hôn nhân cận huyết ấy được hủy bỏ.
Câu chuyện ấy lan tỏa như nhịp khèn ngân vang qua nương rẫy, thấm vào đời sống tinh thần bản làng. Dia đã chiến thắng “cơn bão lặng”, dữ dội hơn mưa lũ ngoài trời. Thanh niên bản Mùa Xuân bắt đầu tìm bạn đời từ những bản xa, dòng họ khác. Nhìn lũ trẻ lớn lên khỏe mạnh, học hành tử tế, Dia vẫn thường nhắc: “Mình không chỉ giữ nếp sống cho hôm nay, mà còn giữ sức sống cho cả tương lai của bản”. 
Thao Văn Dia dồn trọn tâm huyết vào việc thay đổi nếp sống của bà con. Dia kiên nhẫn từng bước, không nặng lời nhưng nhất quán, vận động họ bỏ những tục lệ tang ma kéo dài, cỗ bàn linh đình, tốn kém. Mỗi lần nhắc nhở, ánh mắt anh dịu dàng nhưng chắc nịch, lời nói dung dị thấm vào lòng người: “Người chết cần được thanh thản, con cháu còn sống cần no bụng, đủ áo mặc để ra nương làm ăn”. Lời nói dung dị ấy như thấm vào từng ngóc ngách bản làng, chạm đến trái tim mỗi người.
Không chỉ dừng ở những lời nhắc nhở, ngày thường Dia vẫn lặng lẽ đi qua từng nếp nhà, ân cần hỏi han, động viên bà con. Thấy ai đau ốm, Dia kiên nhẫn khuyên: hãy đến trạm xá, đừng chỉ gửi gắm niềm tin vào lễ cúng giải vía. Dia kể bằng trải nghiệm chính mình: lần đau ruột thừa quặn thắt, nếu không nhờ cán bộ y tế kịp thời phẫu thuật thì có lẽ hôm nay Dia đã chẳng còn ngồi đây cùng bà con. Vợ Dia cũng vậy, hai lần mổ u nang, một lần mổ ruột thừa - tất cả đều nhờ đi viện đúng lúc mà giữ được sự sống. Những câu chuyện thật, giản dị mà lay động, khiến bà con hiểu rằng: chăm sóc sức khỏe không chỉ để giữ cho thân thể lành lặn, khỏe mạnh mà còn để bản làng được an vui, lâu bền.
Ngay cả trong hôn nhân, gia đình Dia cũng làm gương. Khi tổ chức đám cưới cho con trai, Dia dặn kỹ càng con cái và họ hàng: chỉ mời vừa đủ người, cỗ bàn đơn giản, trang phục áo quần gọn gàng, tránh lãng phí tiền của. Ngày vui không rườm rà, nhưng vẫn ấm áp, đầy đủ niềm vui và lễ nghi cơ bản. Bà con thấy cách làm của Dia vừa văn minh, vừa thực tế, từ đó nhiều gia đình bắt đầu noi theo, để những lễ cưới, tang ma trong bản ngày càng giản dị nhưng ý nghĩa, phù hợp với đời sống mới.
Dẫu kiên quyết loại bỏ những hủ tục lạc hậu, Dia vẫn nâng niu, gìn giữ từng nét đẹp truyền thống của người Mông: trang phục dân tộc, múa khèn, múa ô, các trò chơi và trò diễn như chọi cù, ném còn… Dia thường nhắc nhở trai bản bằng giọng trầm ấm, chắc nịch: “Đừng để khèn rơi vào quên lãng. Tiếng khèn là hồn vía của người mình”. Dia dạy các em nhỏ thổi và múa khèn, cất lên những làn điệu dân ca cổ, nhắc nhở về nguồn cội và những giá trị tinh thần mà thế hệ trước để lại.
Ngày hội Gầu Tào, Dia khoác áo chàm, bước ra giữa vòng hội, tay nâng hạ khèn theo nhịp điệu. Nhịp khèn hòa cùng nhịp tim Dia, dẫn dắt các em nhỏ và bà con nhún múa, reo hò. Ánh mắt anh sáng rực, nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt rám nắng, kiên định mà hồn hậu, khiến mọi người cảm nhận rõ niềm tự hào dân tộc. Dia không chỉ gieo mầm kinh tế, mà gieo niềm tin, giữ lửa văn hóa. Mỗi điệu múa, tiếng khèn, nhịp chân trên nền đất rừng đều là triết lý sống, là bài học về tôn trọng truyền thống. Người Mông Mùa Xuân học cách yêu thương, giữ gìn, nhưng không còn bị ràng buộc bởi hủ tục, để dòng giống và bản làng cùng sống, lớn lên như núi rừng trỗi dậy qua mỗi mùa gió sương. 
Hoàng hôn buông xuống. Dia đứng trên đồi cao, nhìn xuống bản làng, trong lòng trào dâng niềm hạnh phúc, tự hào và trách nhiệm. Cảnh vật dưới chân đồi nhuộm màu vàng nhạt, nương rẫy trải dài và những mái nhà gỗ chìm trong ánh chiều dịu dàng - khung cảnh ấy khiến tôi bất giác cảm nhận rõ hơn vai trò đặc biệt của Dia nơi bản Mông này. Tôi nhìn dáng người đàn ông Mông rắn rỏi, vầng trán rám nắng, ánh mắt sáng như ngọn lửa. Ở những bản làng biên giới, uy tín thường thuộc về những già làng - vậy mà Dia còn trẻ tuổi, đã trở thành người được mọi người nể trọng. Dia không chỉ là người góp phần xóa bỏ hủ tục, gieo mầm kinh tế, giữ bình yên cho bản làng, mà còn là ngọn lửa thắp sáng niềm tin trong lòng dân. 
Mùa Xuân những năm gần đây đã khác hẳn. Không chỉ cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ mà còn nhiều đổi thay trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Từ vài chục hộ dân ban đầu, giờ bản Mùa Xuân đã có 124 hộ với 573 nhân khẩu. Khi đường bê tông phẳng lỳ nối vào tận bản, ánh điện bừng sáng trong từng nếp nhà, cuộc sống như được khoác lên một tấm áo mới. Nhà nhà sắm sửa tivi, xe máy,… đời sống vật chất được nâng lên rõ rệt, nhưng không vì thế mà mất đi nhịp sống giản dị nơi núi rừng. Những hủ tục nặng nề như hôn nhân cận huyết thống, nạn tảo hôn đã lùi vào dĩ vãng; trẻ em đến trường đông đủ; tỉ lệ hộ nghèo không còn cao như trước, đồng bào đã biết đưa người ốm đi khám chữa bệnh y tế, ma chay cưới hỏi cũng gọn nhẹ, ấm tình. Trên sườn đồi, những nương lúa xanh rì trải dài; dưới thung sâu, mái gỗ nâu trầm, nhuốm khói bếp, thấp thoáng giữa màu xanh đại ngàn. Tiếng cười trẻ con vang lên trong ngôi trường khang trang, tiếng khèn dìu dặt hòa cùng tiếng mõ trâu lóc cóc trên sườn dốc.
Khi nghe tôi nhắc đến công lao của mình, Dia chỉ cười hiền: “Công sức là của cả bản. Dia chỉ góp một phần nhỏ thôi. Có Đảng, có Nhà nước, có bà con đồng lòng thì mới nên được mùa xuân này”. Nụ cười ấy giản dị mà sâu lắng, như chính con người anh - bền bỉ, khiêm nhường, nhưng luôn đau đáu trách nhiệm với bản làng.
Tôi nhận ra, sự đổi thay của Mùa Xuân không đến từ những việc lớn lao, mà từ những điều nhỏ bé Dia kiên trì gieo xuống từng ngày: một lời nhắc bỏ hủ tục, một bước chân vượt dốc mở nương, một tấm gương sáng âm thầm dựng lên giữa đời thường. Tất cả cộng lại, thành những hạt mầm âm ỉ nảy nở. Và hôm nay, trên đất rẻo cao biên giới, những hạt mầm ấy đã trổ bông, kết trái thành mùa xuân của niềm tin và no ấm - mùa xuân ở lại mãi trong lòng người Mông bản Mùa Xuân.
Trong bức tranh rộng lớn về miền biên viễn, những đảng viên, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số hiện lên như những mạch nguồn bền bỉ. Họ là nhịp cầu nối liền chính quyền với nhân dân, là điểm tựa để bản làng đi tới sự đổi thay toàn diện. Thực hiện Kết luận số 684-KL/TU ngày 10-12-2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về tăng cường công tác dân vận vùng đồng bào dân tộc Mông tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2021-2025. Để triển khai, thực hiện, ngoài phân công đảng ủy viên phụ trách địa bàn, Đảng ủy xã Sơn Thủy đã động viên những người có uy tín cùng vào cuộc tuyên truyền, vận động người dân; đề cao vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên trong vùng đồng bào Mông. 
Những câu chuyện về đảng viên Thao Văn Dia không chỉ còn là ký ức trong bản Mùa Xuân, mà đã trở thành minh chứng sinh động cho vai trò của người có uy tín - điểm tựa của bản làng nơi biên giới. Đồng chí Hà Văn Thể - Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã Sơn Thủy chia sẻ: “Sơn Thủy là một xã vùng cao biên giới, có 4 dân tộc cùng sinh sống: Thái, Mông, Mường và Kinh, trong đó đồng bào Thái chiếm 75%. Ở đây, người có uy tín là lực lượng nòng cốt, là cầu nối quan trọng giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Lời nói của họ có sức nặng, việc làm có sức lan tỏa. Những tấm gương như Thao Văn Dia (bản Mùa Xuân), Sung Văn Cấu (bản Xía Nọi)… đã trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc, tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho bà con người Mông. Họ đi đầu trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, gìn giữ bản sắc văn hóa, vận động con em đến trường, bài trừ hủ tục, xây dựng nếp sống mới và giữ gìn sự bình yên cho bản làng. Nhờ sự tận tụy và uy tín ấy, các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước được bà con đón nhận một cách gần gũi, thấm sâu, rồi trở thành hành động thiết thực trong đời sống hằng ngày”.
*
Trên chuyến xe khách xuôi phố thị, tôi bâng khuâng nghĩ về hai con người cả đời gắn bó với bản Mông - với những nương rẫy, nếp nhà và tiếng cười trẻ thơ vang vọng giữa đại ngàn. Họ không chỉ là những đảng viên gương mẫu, mà còn là người giữ đất, giữ bản, giữ bình yên và niềm tin của cộng đồng. Nếu Sung Văn Cấu là ngọn lửa kiên bền dẫn lối, thì Thao Văn Dia là người gieo mầm xuân nơi rẻo cao. Lửa và mùa xuân - hai hình tượng gặp nhau, soi sáng và làm nên sức sống bền lâu cho vùng biên giới Sơn Thủy.
Ở miền biên giới xa xôi, mùa xuân không chỉ đến từ tên bản, mà từ trái tim, từ trách nhiệm và lý tưởng của những con người trọn đời son sắt với Dân, với Đảng. Chính họ - những đảng viên kiên trung, lặng lẽ - đã chứng minh rằng: uy tín và tâm huyết là sức mạnh vô hình giúp cộng đồng vững bền, để mùa xuân ở lại, niềm tin ở lại, và ánh sáng của Đảng lan tỏa, soi đường nơi rẻo cao biên cương. 
                                    Q.T


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 185
 Hôm nay: 6601
 Tổng số truy cập: 14713579
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa