Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /     /   Chuyện về những người có uy tín ở bản Mông nơi biên giới Kỳ 1: Ngọn lửa sáng ở Xía Nọi (Bút ký)
Chuyện về những người có uy tín ở bản Mông nơi biên giới Kỳ 1: Ngọn lửa sáng ở Xía Nọi (Bút ký)

QUỲNH THƠM

Chuyện về những người có uy tín ở bản Mông nơi biên giới
Kỳ 1: Ngọn lửa sáng ở Xía Nọi

Bút ký

Sáng sớm Xía Nọi, sương bảng lảng trên những sườn dốc của dãy núi Pù Mằn, như dải lụa bạc buông nhẹ giữa trời đất. Suối róc rách, khói bếp mỏng tang bay lên từ mái nhà gỗ thấp. Trong màn sương ấy, dáng Sung Văn Cấu hiện ra - lững thững, gùi sau lưng, tay cầm dao quắm quen thuộc. Ông men theo dốc nương, rồi rẽ xuống lối mòn về bìa rừng. Mỗi bước chân như ghi dấu một đời sống gắn bó với núi rừng và cộng đồng. Ngoài năm mươi, tóc đã lấm tấm bạc, ánh mắt ông vẫn sáng, hun đúc sự kiên định của một đảng viên, người uy tín mà bà con gửi trọn niềm tin. Ông như cây sa mộc nơi núi rừng - biểu tượng của sự vững vàng, là chỗ dựa cho cả bản làng. Người dân thường nói: “Ở Xía Nọi, chỗ nào khó, chỗ nào cần, là có bước chân ông Cấu”. Uy tín ấy không ở chức danh hay lời nói, mà ở từng việc làm lặng lẽ, bền bỉ. Chính những bước chân âm thầm ấy đã trở thành ngọn lửa thắp sáng niềm tin, dẫn lối cộng đồng đi qua bao gian khó nơi rẻo cao biên giới.
Hành trình dựng uy tín
Sung Văn Cấu quê ở Pù Nhi (Thanh Hóa). Những năm đầu thập niên 90, theo dòng người Mông, cậu trai trẻ Sung Văn Cấu cùng gia đình rời những triền núi khô cằn, hiểm trở, để tìm vùng đất mới - Xía Nọi, một bản Mông hoang sơ giữa núi rừng. Hành trình dài qua đường mòn, suối xiết, dốc núi cheo leo luôn rình rập hiểm nguy, Cấu vẫn bước theo cha mẹ, lưng gùi gạo ít ỏi, tay níu giỏ đồ thô sơ. Qua từng bước đi, Cấu học cách gánh vác, chia sẻ khó nhọc với mọi người. Hành trình ấy hun đúc trong cậu ý chí kiên cường, bền bỉ - những phẩm chất làm nền tảng để sau này Sung Văn Cấu trở thành người có uy tín, dẫn dắt bản làng. 
Những ngày đầu đặt chân lên Xía Nọi, núi rừng hoang vu, đất đai cằn cỗi, đồng bào Mông chật vật trăm bề. Bữa ăn chỉ có củ mài, củ sắn, đọt măng rừng, tất cả đều trông vào trời. “Trời thương thì ngô nảy mầm, trời phụ thì nương khô cằn” - bà con thở dài nhìn triền đất bỏ hoang. Mưa hạn, gió Lào bỏng rát, mùa màng thất bát, cái nghèo như chiếc bóng không rời. Người già run rẩy bên bếp lửa, trẻ thơ quanh năm đói rét, chưa no cái bụng thì làm sao nghĩ đến chuyện con chữ. Đói nghèo, thất học và hủ tục lạc hậu cứ quấn lấy người Mông như một vòng luẩn quẩn, níu bước bao thế hệ. Trong cảnh thiếu thốn ấy, một thanh niên biết chữ, nói sõi tiếng Kinh bỗng trở thành điểm tựa. Học hết lớp 9, thông thạo tiếng Kinh, Cấu trở thành cầu nối đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với bà con. Người bản vẫn bảo: “Cấu nói tiếng Kinh như người xuôi”.
Từ Bí thư Chi đoàn đến Trưởng bản, Bí thư kiêm Trưởng bản Xía Nọi, mỗi bước đi là một thử thách. Từng lời nói, từng quyết định của Sung Văn Cấu không chỉ gắn với cuộc sống bản làng mà còn gửi gắm cả sự bình yên nơi biên cương. Với Cấu, dấu mốc lớn nhất trong cuộc đời là năm 2003, khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng. “Đảng viên” - với đồng bào Mông không chỉ là danh xưng, mà là người đi trước mở đường để bản cùng bước theo. Từ đó, Sung Văn Cấu sống trọn niềm tin ấy bằng những việc làm bền bỉ, giản dị.
Giờ đây, trên cương vị Tổ trưởng tổ an ninh bản Xía Nọi, người ta vẫn thường  thấy bóng dáng ông Cấu trên con đường đất gập ghềnh, mưa thì khoác áo mưa bạc màu nhắc bà con giữ trật tự, nắng lại ngồi bậu cửa khuyên phụ huynh cho con đi học. Cách nói mộc mạc, việc gì cũng làm trước khiến bà con tin: “Ông Cấu nói là bà con nghe, vì ông nói bằng cái bụng thật”. Trong bản, hễ có khúc mắc, người ta lại bảo: “Để ông Cấu nói thì mới xuôi”. Trâu phá lúa, ông khuyên: “Trâu biết gì, mình là người phải nghĩ. Lúa trồng lại được, tình nghĩa khó bù”. Tranh chấp đất nương, ông viện tục lệ xưa, lấy tình cảm hóa giải. Uy tín và sự điềm tĩnh của ông khiến mâu thuẫn chưa kịp thành hiềm khích đã lắng xuống. Nhờ thế, Xía Nọi có nhiều tiếng cười hơn tiếng cãi vã.
*
Một buổi sáng năm 2016, mây trắng lững lờ qua đỉnh núi. Từ bản Xía Nọi, Sung Văn Cấu khoác chiếc áo chàm sờn gấu, gùi theo nắm cơm nếp, lội bộ xuống huyện dự lớp tập huấn chính sách dân tộc. Lần đầu tiên ông được ngồi trong căn phòng chật kín, nghe cán bộ huyện nói về việc xây dựng nếp sống mới, bỏ bớt những hủ tục trong tang ma, cưới hỏi. Trong đầu ông hiện lên hình ảnh đám tang ở bản Xía Nọi: thi thể không đặt vào quan tài, đến khi thi thể bốc mùi mới đem chôn cất; trâu bò đem giết mổ theo số anh em trai trong nhà, con cháu quần quật nhiều ngày, rượu ngô cạn mà nước mắt chưa khô. Người chết đã yên nghỉ, nhưng người sống oằn lưng chịu nhọc nhằn. Ông nhớ ánh mắt trẻ thơ đói lả bên bếp tro tàn, nhớ dáng bà con lầm lũi gánh gồng qua những nẻo đường lầy lội. Lời cán bộ dạy, như ngọn lửa thắp trong ông: “Muốn dân bớt khổ, phải thay đổi hủ tục. Và người cán bộ, người đảng viên phải đi đầu”. 
Trở về bản, con đường mòn vẫn vắt ngang sườn núi, khói bếp vẫn lững lờ trên mái gỗ, nhưng trong ông đã có sự đổi thay. Ông hiểu: từng bước nhỏ hôm nay sẽ mở ra tương lai, và chính mình phải đi đầu thắp lên niềm tin ấy. Trong họp bản, ông kiên nhẫn giải thích tác hại của hủ tục: thi thể để lâu gây ô nhiễm, nghi lễ rườm rà tốn kém, kìm hãm đời sống. Nhưng không phải ai cũng thuận. Có cụ già đỏ mặt phản đối: “Tập tục lâu đời sao dám thay đổi? Ai chịu tội với tổ tiên?”. Người thì xì xào, kẻ lắc đầu. Ông Cấu nhẫn nại dẫn giải, cho bà con thấy đổi thay không phải bỏ cội nguồn, mà để con cháu bớt khổ. Trong ông, niềm tin nhen nhóm: nếu kiên trì, từng gia đình sẽ hiểu, từng nếp sống sẽ đổi thay.
Một năm sau đó, mẹ ông qua đời. Ông lặng lẽ ngồi bên người mẹ già, nghe tiếng khóc nghẹn của người thân, tiếng gió luồn qua vách gỗ như thêm ai oán. Nhưng rồi trong cơn đau, ông biết thời khắc đã đến. Đây chính là cơ hội để biến lời nói thành hành động, để làm gương cho dân bản. Ông họp gia đình, giọng trầm nhưng chắc: “Tang mẹ chỉ hai ngày, đưa vào quan tài. Mẹ sống cả đời giản dị, không muốn con cháu khổ vì mình”. Có người phản đối: “Người Mông mình từ xưa tới nay đều làm như vậy. Nếu giờ bỏ đi, sau này còn biết ăn nói thế nào với họ hàng, bản Mông?”. Ông cảm thấy xung động dữ dội, tim như nghẹn lại. Trong lòng ông, nỗi đau và trách nhiệm giao thoa; ông hiểu rằng sự kiên định hôm nay sẽ trở thành tấm gương cho con cháu mai sau. Nhìn vào mắt từng người thân, ông dồn hết lòng mình: “Đạo hiếu ở tấm lòng, chứ không ở mâm cao cỗ đầy. Đám tang không thể thành gánh nặng cho con cháu”.
Đám tang mẹ ông không giống bất kỳ đám tang nào trước đó trong bản. Thay vì buộc thi thể người chết vào chiếc cáng rồi treo lên vách nhà 5-7 ngày, theo tục cũ của người Mông, ông quyết định đưa mẹ vào quan tài, làm gọn nhẹ và trang nghiêm. Không còn cảnh giết trâu mổ bò tốn kém, chè chén triền miên nữa. Trong gian nhà gỗ đơn sơ, ánh lửa bập bùng soi những gương mặt thân quen, in hằn nỗi buồn, tiếng khóc nỉ non hòa lẫn âm thanh khèn vương vấn khắp không gian. Bà con kéo đến, vừa chia sẻ nỗi mất mát, vừa không giấu được tò mò, hoang mang. Có người thì thào: “Liệu làm thế có được tổ tiên chứng giám?”. Ông Cấu vẫn lặng lẽ làm theo điều mình tin. Khi nắp quan tài khép lại, ông đứng lặng, lòng vừa đau xót vừa vững vàng. Khoảnh khắc ấy, cả bản im phăng phắc. Những cái gật đầu lặng lẽ thay cho lời thừa nhận. Người ta nhận ra sự giản dị lại mang đến sự thanh thản. Người chết được chôn cất sạch sẽ, văn minh mà vẫn giữ trọn đạo hiếu. Đám tang của mẹ ông trở thành dấu mốc đầu tiên, nhen lên ngọn lửa của đổi thay, của nếp sống mới nơi bản làng biên giới.
Sau biến cố mất mẹ năm 2017, ông Cấu càng thấm thía giá trị của gia đình, càng tự nhủ phải sống sao cho xứng đáng với niềm tin của bà con. Mỗi lần ông nghẹn ngào nhắc đến người mẹ đã khuất, tôi cảm nhận rõ sức nặng của sự mất mát ấy đã hun đúc thêm cho ông một ý chí mới. Cũng chính bởi thế, khi chứng kiến những hủ tục cũ vẫn còn đeo bám, ông không thể làm ngơ. Một trong những điều khiến ông day dứt nhất, như ông từng chia sẻ với tôi bằng ánh mắt đau đáu, chính là nạn tảo hôn.

Ông Sung Văn Cấu (đứng giữa) cùng cán bộ bản đi kiểm tra tình hình đường tràn suối Xía Nọi trước khi bão số 5 đổ bộ      Ảnh: Xuân Thắng


Chiều buông trên Xía Nọi, khói bếp quyện vào sương núi. Trên đường từ nương về, Sung Văn Cấu khựng lại khi thấy một bé gái ngồi khóc bên suối. Một bé gái mới mười ba, mười bốn tuổi, gương mặt lấm lem nước mắt, hai bàn tay gầy guộc vò chặt vạt áo. Nhìn cô bé run rẩy, tim ông Cấu như bị bóp nghẹt, nhịp thở gấp gáp, mồ hôi lấm tấm trán. Ông nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh: “Sao con lại ngồi đây khóc? Có chuyện gì nói cho ông nghe xem nào?”.
Cô bé ngập ngừng, nước mắt lại chảy ròng ròng: “Con mới học lớp 7 thôi, mà bố mẹ bắt nghỉ học, ép lấy chồng ở một bản Mông xa. Con không muốn… Con muốn đi học nữa”. Nghe đến đó, lòng ông như thắt lại, mồ hôi lạnh rịn xuống trán. Bao năm làm cán bộ thôn bản, ông từng đối diện nhiều chuyện tảo hôn, nhưng khi nhìn thấy đứa bé run rẩy ngay trước mắt, nỗi đau thấm thía hơn bao giờ hết. Ông đặt tay lên vai bé gái, giọng trầm: “Con đừng sợ. Để mai ông sẽ đến gặp cha mẹ con. Con còn nhỏ, việc lớn nhất bây giờ là học chữ”.
Đêm ấy, ông trằn trọc, từng xung động lo lắng dồn dập trong lồng ngực. Trong đầu ông hiện lên những bé gái trong bản, mới mười bốn, mười lăm tuổi đã phải bỏ học, lấy chồng, oằn vai địu con khi tuổi đời còn quá trẻ. Chúng chưa biết chữ, chưa biết tự lo cho mình mà đã cõng thêm cái nghèo, cái khổ của cả một gia đình khác. Lời cán bộ huyện trong lớp tập huấn năm nào cứ văng vẳng: “Nếu không chặn tảo hôn, cái đói, cái nghèo sẽ còn đeo bám mãi”. Ông Cấu lặng người nghĩ: “Phải làm thôi. Không chỉ cho các cháu, mà cho cả tương lai của bản Xía Nọi”.
Sáng hôm sau, khi sương còn phủ trắng nương ngô, ông Cấu tìm đến nhà vợ chồng Thao Văn Da. Trong nhà họ hàng bàn chuyện cưới xin rôm rả. Thấy ông bước vào, người cha đứng dậy chào, niềm nở mời ngồi: “Ông đến đúng lúc, mai mốt nhớ sang dự cưới cho cháu”. Ông Cấu chậm rãi, giọng trầm: “Cháu mới lớp 7, còn là tuổi ăn học. Ép cưới sớm là trái luật Nhà nước, lại chỉ thêm khổ. Có cái chữ mới giúp con cháu mình thoát nghèo, thoát cái vòng luẩn quẩn hủ tục”. Người mẹ cau mày: “Nhưng họ hàng đã biết rồi, bỏ thì sợ bị chê cười…”. 
Ông Cấu kiên nhẫn kể rành rọt từng câu chuyện: những đứa con gái trong bản cưới sớm, mới mười bảy, mười tám đã gầy rộc, sinh con khó, bệnh tật đeo đẳng; những gia đình phải vay nợ để lo ma chay cho con dâu chết yểu. Ông lại nhắc cả những bản Mông khác, nơi có bé gái vì lấy chồng quá sớm mà con cái suy dinh dưỡng, ốm đau, cái nghèo bám riết không dứt. Giọng ông trầm xuống: “Tôi nói điều này không phải để trái tục lệ, mà là giữ cái gốc cho con cháu. Nếu để cháu đi học, sau này có cái chữ, biết làm ăn, biết tính toán, thì cả gia đình cũng nhờ. Đám cưới này bỏ đi, có thể người ta chê cười một lúc. Nhưng chỉ chục năm sau, chính anh chị sẽ được nhờ vì con gái mình có tương lai”.
Không khí trong nhà lặng như sương núi. Vợ chồng Da im lặng, họ hàng nhìn nhau thì thầm. Sau phút ngập ngừng, người cha thở dài, gật đầu: “Ông nói phải. Thôi, để cháu đi học tiếp”.
Ánh sáng buổi sớm chan hòa trong gian nhà gỗ. Ông Cấu hiểu, ngăn một đám cưới sớm không chỉ giữ lại tuổi thơ cho một đứa trẻ, mà còn mở ra cánh cửa tương lai cho cả bản làng. Nghe lại câu chuyện cách đây 3 năm, tôi càng thấm: uy tín của người đảng viên nơi biên cương không đến từ lời to tát, mà từ những việc nhỏ, bền bỉ, kiên định trước hủ tục. Chính sự lặng lẽ ấy khiến bà con tin theo Đảng, chọn con đường sáng, dựng bản no ấm, giữ biên cương vững chãi.
Những hủ tục từng đè nặng đời sống người Mông đang lùi vào dĩ vãng. Đám tang nay gọn nhẹ, người mất được an táng trong quan tài theo nếp mới, trang nghiêm và nhân văn. Trẻ em không còn bị ép duyên, chuyện tảo hôn - nỗi ám ảnh một thời - đã chấm dứt. Niềm vui học chữ lan khắp bản, tiếng ê a át đi tiếng sáo buồn bã của phận người gồng gánh hủ tục.
Uy tín nơi biên cương không khởi từ lời hứa, mà được dựng bằng những bước chân lặng lẽ, những việc làm kiên nhẫn. Trong từng quyết định khó khăn, ông Sung Văn Cấu chọn cách đi đầu, để bà con tin theo. Hành trình ấy gieo niềm tin và đặt nền cho chặng đường lớn hơn: phát triển kinh tế, giữ vững mốc giới, dựng xây bản Mông hôm nay.
Ngọn lửa giữ bản, giữ biên cương
Bản Xía Nọi (xã Sơn Thủy, tỉnh Thanh Hóa) giống như viên đá hình con rùa “ném” xuống vùng biên giới Việt Nam - Lào, có 39 hộ người Mông sinh sống. Trước kia, bản Xía Nọi nằm biệt lập giữa núi rừng, không điện, không trường, không thông tin liên lạc. Mùa mưa, con đường đất dẫn vào bản trở thành nỗi ám ảnh, trơn trượt, sình lầy. Ánh sáng duy nhất về đêm là những ngọn đèn dầu leo lắt. Cuộc sống người dân thiếu thốn trăm bề, nhiều hộ dân thường xuyên phải nhận hỗ trợ lương thực của Nhà nước để vượt qua cái đói. 
Muốn giúp dân thoát nghèo đói, trước hết phải thay đổi nhận thức và tập quán canh tác. Ông Cấu giản dị nói: “Tôi phải làm trước, bà con nhìn thấy lợi rồi mới làm theo”. Ông đi đầu khai phá nương rẫy, phục hồi ruộng bậc thang bỏ hoang, trồng rau màu, nuôi gà lợn, đồng thời kiên nhẫn hướng dẫn bà con học hỏi. Hành động gương mẫu của ông, kết hợp với sự hỗ trợ của cán bộ, chiến sĩ Biên phòng về kỹ thuật trồng lúa nước và phủ xanh đồi trọc, đã lan tỏa mạnh mẽ. Nhờ vậy, Xía Nọi hiện có gần 4ha lúa nước, gần 20ha cây màu, nhiều hộ thoát nghèo, đời sống dần ổn định.
Cùng phát triển kinh tế, bà con dần bỏ tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thực hiện nếp sống văn minh. Cuối năm 2022, điện lưới quốc gia về bản, con đường vào bản được khởi công, trẻ em đi học thuận lợi, nông sản theo chân các bà, các mẹ xuống chợ huyện, thông tin được tiếp cận dễ dàng hơn. Ngày nay, Xía Nọi khác hẳn: nhà sáng đèn điện, vườn rau xanh mướt, chuồng trại ngăn nắp, trẻ con ríu rít đến trường. Ông Cấu chính là ngọn lửa dẫn dắt, thắp sáng niềm tin và ý chí vươn lên của cả cộng đồng.
Với Sung Văn Cấu, để giữ bản làng, bảo vệ cuộc sống lâu dài, trước hết phải giữ từng cột mốc biên giới - nơi khẳng định đất trời quê hương. Bản Xía Nọi có đoạn biên giới kéo dài từ cột mốc 320 đến 323, giáp huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn (Lào). Ở đó, ông Cấu được bà con ví như một “cột mốc sống”, tự nguyện trông coi, chăm sóc cột mốc 321 như chính sinh mệnh mình. Ông cùng Biên phòng đến từng nhà nhắc bà con chấp hành chủ trương, giữ rừng, giữ biên cương. Hàng chục năm qua, tháng nào ông cũng tự gùi dao quắm, khăn lau, can nước lên mốc. Mỗi khi phát hiện dấu hiệu bất thường, ông lập tức báo cáo với cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo. Giản dị mà thấm thía, ông nói: “Cột mốc là mắt Tổ quốc. Giữ mốc là giữ đất. Đất này là của mình, cũng là của nước mình”.
Nhắc đến ông Cấu, bà con Xía Nọi thường bảo: “Ông ấy làm việc gì cũng hết lòng, chẳng quản nắng mưa”. Ông chỉ cười, ngước mắt về phía rừng xanh. Ký ức tháng 8-2019 hiện về. Sáng hôm ấy, mây đen ùn ùn từ núi cao. Trời sắp mưa mà ông vẫn khoác áo chàm, chống gậy lên đường đi thăm cột mốc. Bùn nhão, nước suối chảy xiết, sỏi đá lăn dưới chân khiến từng bước đi chệch nhịp, tay cầm gậy lạnh cứng, tim đập mạnh, lưng áo ướt sũng, chân trượt trên bùn nhưng ông vẫn lầm lũi tiến lên. Đứng trước cột mốc, ông run rẩy đôi tay khi lau những vết rêu, nhưng lòng kiên định, lặng lẽ như ngọn lửa không tắt.
Xuống núi, nước suối dâng ầm ầm chắn lối. Không thể vượt qua, ông tìm chỗ trú lại, nhóm đống lửa nhỏ. Ngọn lửa lập lòe trong mưa gió, soi gương mặt chai sạm, đôi mắt thâm trầm như đá núi. Ngoài kia gió hú, thú rừng gọi bầy, ông vẫn ngồi im, vững vàng như một phần của rừng già. Đến khi mưa ngớt, nước rút, ông mới dò dẫm lội qua, ánh đèn pin chập chờn giữa bóng tối ẩm lạnh. Về đến bản, khói bếp đã tan trong thung lũng, bà con nhìn ông ướt sũng trở về chỉ thốt lên: “Ông Cấu giữ mốc còn chắc hơn giữ nhà mình”. 
Giữ mốc, giữ đất, là giữ niềm tin. Niềm tin ấy bắt đầu từ người đảng viên dám đi trước. Và tôi tin: chừng nào còn có những con người như Sung Văn Cấu, thì biên giới này vẫn vững chãi, núi rừng này mãi xanh, và niềm tin yêu vẫn còn cháy trong lòng bản Xía Nọi.
Cũng bởi sự kiên định và bền bỉ ấy, trong mắt bà con, ông trở thành điểm tựa tin cậy. Bí thư kiêm Trưởng bản Xía Nọi Chá Văn Súa - người từng nhiều năm gắn bó với ông, chia sẻ: “Nhắc đến ông Sung Văn Cấu là ai cũng tin. Ông không nói nhiều, nhưng việc gì cũng làm đến nơi đến chốn. Làm trước rồi mới vận động người dân làm theo. Bà con tin vì thấy ông sống đúng với lời Đảng dạy và đúng cái bụng của người Mông. Ông không chỉ gương mẫu trong làm ăn, xóa bỏ hủ tục, mà còn là chỗ dựa để bà con yên tâm bám bản, giữ đất, giữ mốc biên cương”.
Uy tín của Sung Văn Cấu không đến từ chức danh, mà từ lao động, niềm tin và tấm gương sáng. Những năm qua, ông đã được UBND tỉnh và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh tặng Bằng khen; Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc tặng Bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc giai đoạn 2010-2020 nhân dịp Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số lần thứ II năm 2020,… Những bằng khen, giấy khen ấy không chỉ là sự ghi nhận của cấp trên, mà còn như những bông hoa rừng nở muộn trên vách đá, sưởi ấm một người đảng viên bình dị. Với ông Cấu, phần thưởng lớn nhất vẫn là nụ cười trẻ thơ tới trường, ruộng nương xanh mướt, bản làng sáng đèn mỗi chiều, tiếng khèn vang trong lễ hội thay cho tiếng khóc từ những hủ tục bị đẩy lùi. Ấy mới là hạnh phúc trọn vẹn của một đời người.
*
Đêm vùng biên tĩnh lặng. Khi bản đã lên đèn, Sung Văn Cấu lại cầm đèn pin đi tuần tra. Ánh sáng nhỏ nhoi hắt lên gương mặt chai sạm, in bóng ông vào vách núi. Dõi theo dáng ông khuất dần trong cái thăm thẳm của núi đêm, tôi chợt thấy bóng hình một nét gạch bền bỉ, lặng lẽ mà chắc nịch, như nối quá khứ với hiện tại, nối vất vả đời người với sự bình yên của bản làng. Có lẽ, ngọn lửa mà Sung Văn Cấu nhóm lên từ tuổi thơ cơ cực, từ những bước chân cùng bà con lên nương, xuống ruộng, đến những lần cùng nhau chăm sóc cột mốc biên cương… nay vẫn âm ỉ rực sáng. Bởi thế, trong mắt dân bản, ông không chỉ là một đảng viên tận tụy, một người có uy tín, mà còn là chỗ dựa vững chãi như cột đá đầu nguồn. Và tôi hiểu rằng, chính từ ngọn lửa ấy, giữa núi rừng biên cương, niềm tin và sức sống bản làng được giữ gìn, truyền tiếp, bền chặt như sợi dây nối đất với trời.
Câu chuyện về Sung Văn Cấu khép lại khi gió núi rì rào lay động tán rừng. Nhưng tôi biết, ở Xía Nọi, ngọn lửa ấy vẫn đang bền bỉ cháy. Và rồi, trong hành trình tiếp theo, tôi lại tìm đến một bản người Mông khác - Mùa Xuân - nơi niềm tin tiếp tục bừng sáng giữa đại ngàn biên cương.
                                 

Q.T


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 82
 Hôm nay: 2138
 Tổng số truy cập: 14204686
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa