Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Truyện ngắn   /   Tình yêu lính trận - Lê Ngọc Minh
Tình yêu lính trận - Lê Ngọc Minh

                            Mấy năm tôi ở chiến trường
                            Chỉ riêng lần ấy dễ thường tôi yêu.

                                              (Thơ Phạm Ngọc Cảnh)

Sau Mậu Thân cỡ vài tháng hơn, tôi được điều động từ vùng giáp ranh đi làm đại đội trưởng kiêm chính trị viên đơn vị vận tải C3 ở tuyến sau. Đói khổ đến mấy cũng không kinh khiếp bằng những đợt mưa rét dầm dề ở hậu cứ Đông Trường Sơn. Có ngày sợi mưa không hề dứt giọt gianh lấy một giây trước cái lán nửa nổi nửa chìm. Cánh lính nữ ví những trận mưa dầm là thứ giặc nước. Ban chỉ huy đại đội có ba người: tôi, chú Hai Mô, đại đội phó phụ trách kế hoạch - kho bãi và cô Thảo, đại đội phó phụ trách hành chính - hậu cần - đoàn thể. Chú Hai Mô đã gần năm mươi tuổi, bộ đội tập kết trở lại chiến trường Trị Thiên từ hồi Đồng Khởi. Chú góa vợ từ hồi mới ba mươi, con trai đầu đang là đại đội trưởng pháo cao xạ ngoài đảo Cồn Cỏ. Cô Thảo, hai lăm tuổi, một thiếu nữ đẹp rực rỡ giữa núi rừng chiến địa. Thật kỳ lạ, trong điều kiện kham khổ ở cứ sau Mậu Thân mà da thịt, vóc dáng của cô vẫn bừng phát tươi trẻ như thiếu nữ tuổi dậy thì. Hồi mới về, phân công nhiệm vụ chỉ huy xong, tôi hỏi trêu: “Thảo nầy, cô có bí quyết gì mà giữ được sức vóc và nhan sắc bền như thế?”. Thảo cười hồn nhiên, nói vô tư: “Thảo chỉ yêu nhiều thôi anh Thi ơi!”. Tôi trố mắt ngạc nhiên còn chú Hai Mô thì lầm bầm: “Giữ cái mồm, răng mi dám ăn nói cà lăm với đại trưởng thế?”. Thảo vẫn cười, nói tiếp: “Bụng con có sao thì con nói vậy mà chú Hai!”. Khi cô Thảo đi rồi, chú Hai Mô phân trần với tôi, chú đe cho cô Thảo sợ tội bất kính với tôi chứ cô là thành trì bất khuất phục trước sự tán tỉnh theo đuổi của cánh trai trẻ trong đơn vị. Chú cho biết thêm, Thảo là sinh viên Huế, bỏ học lên cứ theo cách mạng từ năm chưa đầy tuổi hai mươi, cô đã từng làm lính văn phòng đoàn bộ vận tải nhưng đã xin xuống đại đội làm bốc vác, cô trưởng thành từ tiểu đội trưởng lên trung đội phó, trung đội trưởng và mới được đề bạt chức đại đội phó trước khi tôi về được ít ngày. Kể xong, chú Hai Mô nhận xét: “Thành trì không đổ thì thôi, chớ mà đã đổ thì đổ rừm, đổ riệt cái liền!”. Tôi thích câu nói dân dã nhưng ấn tượng của đại đội phó Hai Mô.
Một ngày mưa lớn sát tết. Bên ngoài doanh trại của đại đội vận tải mọi vật đều mờ ảo trong màn nước sậm đen vì rét buốt, tôi đội tấm tăng đến dãy lán của lính nữ kiểm sát binh tình xem cách chị em đối phó với giặc nước thế nào. Đến đầu hồi thấy mấy chị em cùng đại đội phó Thảo đang ngồi quanh một cái chảo quân dụng được đặt trên ba hòn đá có lửa nổi ở dưới để rang quần áo. Tôi kín đáo dừng lại, đắn đo xem có nên vào hay không thì nghe những tiếng ca thán kêu trời, kêu đất. Một cô thốt lên: “Ông trời lấy nước ở mô ra mà nổi giặc nước lên nhiều rứa, trời ơi... ơi...?”. Thảo nói vui: “ổng tích trong suốt sáu tháng nắng để mần ra sáu tháng mưa, mi càng kêu, ổng càng sai giặc nước dội thêm nữa đó”. Thảo trở mớ quần áo được rang trên chảo quân dụng bằng tay. Cô chợt nhìn kỹ một cái áo con vải bộ đội còn mới rồi nhìn vào cô gái vừa kêu trời cười, bảo: “Liên! Của mi khô cong rồi nầy, sốt ruột thì lấy diện vô đi!”. Cô gái tên Liên chua chát: “Toàn giống cái cả mà chị Thảo, diện để mần cái chi?”. Thảo cười: “Rứa thì đừng có kêu với việc ông trời làm ra giặc nước nữa nha!”. Cô Liên cũng cười và cô nhìn thấy một cái áo khác có chữ Bi ở cổ tay. Cô nhón nó lên, đầu khẽ gật gù, ngoái nhìn một chị gần tuổi bốn mươi, người gầy da sạm màu sốt rét, nói: “Cái nầy khô rồi, ui thơm lắm. Chị Bi diện vô lên chào anh Hai đại phó một câu đi. Anh Hai tụi em đang kết toán sổ sách rối cả đầu óc, răng chị Bi bếp trưởng cơm áo gạo tiền lại vô tư ngồi nhàn vậy ta?”. Cô Liên nói và lấy cái áo con đưa cho chị Bi. Chị Bi đỏ rần mặt, nói lảng: “Nỡm cái chi rứa, mi đừng có khéo đổ nhớt cho nheo nữa nha. Mi liệu thần hồn với  thằng Thành ở dưới B3 đó”. “Ui, anh Thành là của chị Thảo đại phó chớ, đúng không đại phó?”. Thảo cười xòa xòa rồi bình thản đáp: “Tui không dễ tính nhưng cứ o mô thải ra, tui nhận liền để làm hàng dự trữ  đó...”. Xa xa có mấy người lính đi đến, tôi không thể cứ đóng vai kẻ nghe lén được nữa mà đón họ cùng đi vào. Tiếng chào “đại trưởng” rộn lên. Thấy nếu cứ mang mấy cái thân đầy nước mưa mà vô lán thì làm “ngập” hết mất nên tôi cùng mấy bộ đội nam dừng lại bên ngoài giọt gianh. Chị Bi kêu lên: “Mời đại trưởng với mấy chú vô lán hơ lửa cho ấm đi. Đứng chỗ nớ càng bị ướt thêm đó”. Tụi tôi vào, cố nói to: “Cám ơn chị Bi! Coi chừng tụi tôi mần trôi lán mất”. Một đồng đội nam: “Mưa to quá! ái chà, chị em nghĩ ra cách rang nầy, quần áo khô nhanh mà không bị ngấm mùi khói”... Liên, người mới trêu chị Bi lúc trước, nói: “Kinh nghiệm anh Hai đại phó bầy để chị Bi dạy tụi em đó đại trưởng và mấy anh ơi! Ngó có ngon lành không, đại trưởng?”. Tôi đáp: “Rất sáng kiến”. 
Mưa tiếp tục ào ạt, mỗi lúc một dữ dội hơn. Không gian rừng núi Đông Trường Sơn mù mịt, trong gang tấc không nhìn rõ mặt người.
Chiến sĩ liên lạc đội mưa đến báo cho tôi hay, có thủ trưởng cấp trên đi kiểm tra đột xuất. Tôi ra hiệu cho Thảo về họp ban chỉ huy rồi chào mọi người, ra trước. Về đến lán, tôi thấy các thủ trưởng đã ở đấy. Đại phó Hai Mô đang lúng túng đón khách cấp trên. Tôi nhận ra đoàn trưởng Trần Trung đi cùng ba vị dáng vẻ thủ trưởng rồi được giới thiệu đó là tham mưu trưởng sư đoàn cùng hai thuộc cấp của ông. Các thủ trưởng cho biết vừa đi kiểm tra địa đạo 310. Đoàn trưởng Trần Trung thân mật nhìn tôi rồi báo cáo với tham mưu trưởng sư đoàn: “Đây là đồng chí Thi, đại đội trưởng kiêm chính trị viên C3 vận tải!”. Tham mưu trưởng thân thiện bắt tay tôi và bảo: “Đại đội trưởng chủ công đã làm quen với đơn vị vận tải tuyến sau rồi phải không? Cơ ngơi của đại đội được đấy!”. Tôi cảm động trả lời: “Dạ! Cám ơn thủ trưởng. Các thủ trưởng bận nhiều việc mà vẫn còn nhớ đến cánh lính tráng vận tải tụi em”.  Đoàn trưởng: “Không nhớ mà tụi tôi tìm đến đúng chỗ các cậu trong lúc mưa gió như ri ư?”.
Đại đội phó Thảo xuất hiện. Có lẽ các vị khách cấp trên cũng bị ngạc nhiên vì vẻ xinh đẹp rực rỡ của cô như khi tôi nhìn thấy Thảo hôm mới về đại đội. Cô mang theo bó củi lớn bọc bằng vải tăng và chào hỏi các thủ trưởng khá tự nhiên: “Mưa ri, mấy chú đến kiểm tra, tụi con không có công việc chi để báo cáo, xấu hổ quá đi!”. Đoàn trưởng Trần Trung: “Có nhiều việc chớ, có phải đây là đồng chí đại phó chưa khi mô biết buồn không?”. Tôi chưa kịp trả lời với chức trách chủ nhà phải giới thiệu thành phần đơn vị thì Thảo đã nói: “Là con đây chú!”. Đoàn trưởng gật đầu: “Danh bất hư truyền. Chúc nữ đồng chí đại phó mãi đẹp tuổi trẻ giữa đại ngàn Trường Sơn nha!”. Chúng tôi vỗ tay góp vui cùng Thảo.
Đại đội phó Hai Mô nổi lửa. Công việc nhà binh được chỉ đạo thực hiện ngay bên đống lửa cháy đùng đùng. Ba cán bộ đại đội tụi tôi báo cáo với các thủ trưởng về tình hình ăn ở, vận chuyển, tổ chức kho bãi cất giấu, bảo quản hàng hóa, lương thực, vũ khí, tình hình cung ứng hàng hóa phục vụ tết cho bộ đội và các cơ quan của quân khu...  Trong tiếng mưa ầm ào như bão bỗng nghe như có tiếng chày thậm thịnh, thậm thịch... vọng đến. Đoàn trưởng Trần Trung hỏi Thảo: “Nầy, nầy! Cái chi mà nghe giống như tiếng chày giã cối đó, bây?”. Thảo vội nói: “Dạ, báo cáo các thủ trưởng, trời mưa, chị em tụi con tranh thủ làm món bánh cuốn để liên hoan mừng các thủ trưởng ghé thăm đại đội vận tải đó ạ”. Đoàn trưởng: “Sang rứa? Cứ như đang ở Huế”. Đại phó Hai Mô thật thà: “Dạ, báo cáo các thủ trưởng, có bao gạo bể tải bị ướt, chị em sáng kiến làm bánh cuốn thay cơm chiều”.
Mọi người gật gù tán thưởng rồi bỗng đoàn trưởng nhìn tôi nói với tham mưu trưởng, giọng có vẻ căng thẳng: “Báo cáo đồng chí tham mưu trưởng! Tui chưa biết chủ trương đánh lớn cụ thể ra răng. Nhưng quân khu rút của tui một đại đội trưởng xốc vác kiểu ni thì nói thiệt, nói rất thiệt, nghe mà tui choáng quá!”. Tham mưu trưởng: “Tình hình phát triển rất nhanh sau khi ta khai thông đường Trường Sơn Đông. Tôi nghĩ, không riêng gì cậu Thi mà cả anh, cả tôi cũng có thể nhận một vị trí ở nơi trực tiếp chiến đấu đấy. Nên mừng, anh Trần Trung ạ”. Đoàn trưởng Trần Trung nhìn sang tôi hỏi như bản tính dân dã, nóng nảy của ông: “Thi nầy! Nếu mi đi, đứa mô thay mi coi được cái đại đội quan trọng nầy hỉ?”. Tôi liền thưa: “Báo cáo các thủ trưởng, có chú Hai Mô và cô Thảo đây ạ! Dạ! Đồng chí Đỗ Văn Mô đại đội phó vào chiến trường từ sáu mốt, sáu hai (1961, 1962) rất giỏi xây dựng kế hoạch kho bãi và tổ chức bảo quản, phân phối hàng; đồng chí Phạm Phương Thảo, đại đội phó, cán bộ nữ cấp đại đội trẻ nhất đoàn, nhanh nhẹn tháo vát, tổ chức gây dựng phong trào giỏi hết chỗ chê và là người không bao giờ biết buồn...”. Chú Hai Mô ngắt lời tôi, từ chối: “Đại trưởng Thi à! Anh để cấp trên tìm người khác đi. Tui già rồi! Chữ nghĩa tui chỉ đủ cộng trừ nhân chia... khó gánh vác được việc lớn! Cô Thảo làm đại trưởng sẽ tốt gấp mười tui. Thảo, mi nhận đi để các thủ trưởng yên tâm giao nhiệm vụ”. Cô Thảo cũng từ chối và theo cô, nếu tôi về đơn vị chiến đấu thì không ai làm đại trưởng tốt hơn chú Hai Mô...
Đang khi ấy thì chị Bi và một cô gái đội mưa có ba anh lính trẻ giúp che nón, che ô làm bằng vải tăng rụt rè vào lán chỉ huy. Chị Bi bê một cái nắp xoong quân dụng lớn, trên chất đầy bánh cuốn nóng. Chị hơi mất bình tĩnh nói: “Dạ, tụi em biết các thủ trưởng đang họp... Dạ... ạ, nhưng chị em làm bánh cuốn... thứ ni có ăn nóng... mới ngon... Dạ... ạ! Tụi em mời các thủ trưởng giải lao... liên hoan ạ”. Thảo và chú Hai Mô đến giúp chị Bi đỡ khay bánh. Các thủ trưởng ân cần bắt tay chị Bi, khen: “Cám ơn nữ đồng chí! Sáng kiến quá! Trông ngon thiệt!”. 
Làm việc và “liên hoan” bánh cuốn xong, đoàn công tác rời đại đội luôn, sau đó cấp trên có quyết định, ra giêng mồng sáu tết, tôi bàn giao để về sư đoàn chỉ huy đại đội trinh sát, chú Hai Mô cũng về sư đoàn làm trưởng trạm phân phối quân nhu. Thảo ở lại làm đại trưởng kiêm chính trị viên, ban chỉ huy được bổ sung hai người từ các cán bộ trung đội tiêu biểu.
Ngày tất niên, trời trở nên quang đãng, có ánh nắng vàng tươi về chiều nhưng vẫn còn khá lạnh. Đại đội vận tải tổ chức đón giao thừa vừa vui vừa bịn rịn vì chỉ ít ngày nữa là kẻ ở người đi. Tuy vậy không khí tết hậu cứ vẫn hân hoan vui nhộn cho đến gần hai giờ sáng. Tôi có thói quen đi kiểm tra đốc gác vào ca cuối cùng trong đêm nên chỉ chợp mắt một lát rồi dậy đi một vòng bao quanh địa bàn doanh trại kho bãi của đại đội. Khi tôi ra đến cửa rừng thì thấy Thảo đang ngồi một mình nhìn về hướng Huế, nơi có một quầng sáng đục đục mờ ảo trong sương đêm. Tôi đến chúc tết Thảo, thấy mắt cô đỏ hoe. Tôi thầm đoán, cô đang trĩu lòng nỗi thương nhớ những người thân yêu của mình ở Huế trong thời khắc sắp bình minh ngày đầu năm mới! Đoán thế nhưng tôi cũng hỏi một câu đến ngớ ngẩn: “Vậy ra Thảo chẳng phải là người không bao giờ biết buồn, đúng không?”. Mắt Thảo ngấn lệ: “Buồn, buồn nhiều chớ, đại trưởng!”. Rồi Thảo cởi mở hỏi: “Đại trưởng ơi, đặc điểm nhứt của đơn vị ta là gì ạ?”. Tôi còn chưa nghĩ ra cái gì đáng nêu là “đặc điểm nhứt” thì Thảo trở nên trầm tư, nói: “Em nghĩ đơn vị mình ở hậu cứ, gái nhiều trai ít, anh chị em lại đang tuổi yêu đương. Yêu nhưng rồi lại cứ muốn mấy chàng của hiếm không bị sở hữu riêng của bất cứ cô nào, vì rứa, em thấy khi đùa vui thì ai cũng nói năng bạo miệng tới bến nhưng đến khi nghiêm túc thì dường như mỗi người đều tự dằn lòng không được nghĩ đến tí riêng tư mô. Đại trưởng ơi, em biết, chú Hai Mô và chị Bi thương nhau lắm đó nhưng họ cũng chỉ biết thương mà để trong lòng thôi. Khổ rứa đó!”. Tôi không biết nói với Thảo thế nào cho phải. Tôi thầm phục cô tinh tế và có tấm lòng thấu cảm. Gần một năm làm thủ trưởng đơn vị, tôi đã lo toan được nhiều việc chung nhưng lại quên khuấy mất cái góc khuất đầy nhân bản này. Bỗng Thảo nhìn vào mắt tôi, nói: “Phải sớm thay đổi thôi, đại trưởng ơi!”. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Thay đổi chi?”. “Chiến tranh không biết khi mô dứt, cần phải yêu đương, cần phải lứa đôi cho cuộc đời có thêm những thao thức, những hy vọng thành quả để có người mà đánh giặc chớ. Em nghĩ, trong bữa cơm tân niên trưa ni, đại trưởng tuyên bố cho chú Hai với chị Bi đi, đại trưởng đồng ý với em đi nha?”. Thảo nói và bất ngờ bạo dạn nắm ríu hai bàn tay vào tay tôi. Người tôi nóng ran lên như lửa. Chúng tôi nhìn vào mắt nhau, đôi mắt Thảo toàn là hấp lực và hấp lực. Tôi định liều một nụ hôn nhưng không biết bắt đầu như thế nào. Bốn bàn tay tụi tôi trong nhau, hai cặp mắt vẫn nhìn nhau lặng im nhưng lâng lâng ngây ngất... Chân trời ngày đầu năm ửng hồng, gương mặt Thảo chưa bao giờ tươi tắn và đam mê đến thế! Đúng! Năm mới đã bắt đầu! Và tôi đã biết yêu!
            

L.N.M


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 134
 Hôm nay: 4230
 Tổng số truy cập: 13604491
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa