Bây giờ thì hắn trở thành một gã đi xe ôm thực thụ. Hoành “xe ôm”. Nhiều người gọi thế. Họ hàng, bạn bè, bà con trong làng gọi thế. Có điều trông hắn đi xe ôm, ai cũng thấy hơi buồn cười vì từ mặt mũi, cho đến cách ăn mặc của hắn trông rất bảnh bao. Nhưng hắn đang từ một cán bộ có triển vọng của xã lại trở thành một gã đi xe ôm. Cái nghề “vạn bất đắc dĩ” ấy thì chỉ mình hắn mới biết rõ nguồn cơn... ở cái làng Ngang, xã Bến, huyện Hà này dân làng chỉ làm nghề biển, đàn ông quanh năm chém sóng lặn gió nên ai nấy da rám nắng, chân tay sần sùi như vỏ cam sành vì chuyên chèo thuyền kéo lưới. Đàn bà thường ngày gánh cá chạy qua những cồn cát nắng chang chang giữa những trưa hè, các bà, các chị cứ phải nhón các ngón chân lên tránh cho lòng bàn chân khỏi bỏng nên các ngón chân cứ chúm chím như chân chim. Hồi trẻ, phải nói Hoành đã có tiếng là đẹp trai, người hắn dong dỏng cao, cặp mắt sáng, tóc đen nhánh, khuôn mặt vuông chữ điền và nhất là hắn có làn da trắng mịn mới lạ. Và, không hiểu sao, khác với đám trai làng, hắn có giọng nói rất êm làm nhiều cô gái phải lòng. Chính vì đẹp trai nên vừa học xong phổ thông, vì thi đại học không đỗ hắn liền cưới cô Nụ, cô gái vẫn mê hắn từ lâu lại đang làm thủ quỹ của xã. Nhưng hắn không biết đi biển, hễ hắn ra biển là say sóng, nên ông chủ tịch xã vốn là người họ gần với Nụ, vợ hắn, thấy đứa cháu rể khá oách, khỏe mạnh lại nói năng có duyên mà không đi biển được nên ông bố trí cho hắn một chân văn phòng ủy ban xã. Đấy là một bước ngoặt trong đời hắn. Hàng ngày sáng chiều hắn đến trụ sở xã với bộ quần áo khá chỉnh tề, hắn đem quyển sổ ra đặt lên bàn, mở tủ lấy con dấu để trước mặt, ai đến hỏi gì, có việc gì cần ghi sổ, hắn ghi. Có ai cần xin đóng dấu, hắn nhìn tờ giấy đã có chữ ký của lãnh đạo, hắn đóng con dấu cái cộp. Công việc của hắn nhẹ nhàng, chả mấy bận bịu, lo toan. Hơn một năm sau vợ hắn sinh cho hắn một đứa con gái đầu lòng xinh xắn. Ba năm sau lại đẻ cho hắn một thằng con trai, có nếp có tẻ, đám trai tráng trong làng chả mấy ai bì được với hắn. Hắn yêu vợ con, chăm chỉ công việc và cũng được nhiều người quý mến. Trong suốt một thời gian dài, hắn làm được một số việc tốt. Chẳng hạn hắn đề xuất với xã nên khuyến khích bà con vay vốn của ngân hàng dành cho người nghèo, để họ thu mua cá tươi chế biến thành mặt hàng thủy sản khô. ở cái làng Ngang này, nhiều hôm đi biển về khuya, cá để lâu ươn, mất giá, người ta có thể ướp muối tranh thủ những ngày nắng đem phơi để bán vào những ngày mưa, thứ cá khô này đi chợ xa bán rất đắt. Hắn gọi là “Quy luật giá trị”. Hình như hắn cũng có đọc cuốn sách kinh tế học nào đấy nên nói thế. Xã thấy hắn có lý, nhiều người nghe theo hắn, làm theo hắn mà thoát nghèo, có người trở nên khá giả. Nhất là chuyện hắn tự bỏ tiền túi ra mua đâu được một cái máy I-Côm báo bão từ xa. Nhờ chiếc máy của Hoành mà mấy đoàn thuyền ra khơi tránh được vài ba trận gió lớn. Ngay cả chuyện chị Trinh, ba lăm tuổi không lấy được chồng nhưng chửa hoang, ở cái làng Ngang này, con gái chửa hoang bị người ta xa lánh, hôm chị Trinh đẻ, mà lại đẻ khó, mấy người y sĩ ở bệnh xá cứ để mặc chị ta la khóc trên bàn đẻ, lúc đó tình cờ Hoành đi qua, thấy thế, hắn liền dùng xe máy của hắn, huy động thêm chiếc nữa, tìm võng làm cáng chuyển gấp tuyến trên kịp mổ cho Trinh được mẹ tròn con vuông. Vì thế, nhiều người cảm phục hắn, khen hắn là người có tâm. Còn chị Trinh thì khỏi phải nói. Chị bảo: “Ơn anh Hoành, em mang theo suốt đời”. Rồi chuyện hắn đề xuất với xã thành lập hợp tác môi trường, mua xe gom rác, xử lý rác thải để đường làng sạch sẽ. Nhất là hắn lên loa xã yêu cầu mọi nhà làm công trình phụ hợp vệ sinh, không được phóng uế bừa bãi trên bãi biển. Nhiều năm làm cán bộ văn phòng xã, hắn gây được uy tín, người ta đồn rằng rồi hắn sẽ trở thành một cán bộ lãnh đạo của xã Bến chứ chẳng chơi. ấy thế nhưng rồi cuối năm đó, ông chủ tịch xã họ gần của vợ Hoành nghỉ hưu. Tùng, phó chủ tịch được trên bố trí lên thay. Tùng bằng tuổi Hoành, hắn không học hết cấp ba mà trước khi vào làm cán bộ xã, Tùng là một tay buôn đường dài, có vốn, hắn đầu tư vào đất. Hắn mua những thửa đất hoang, chia lô bán nền nên lãi to, trở thành một tay giàu có nhất làng. Tùng có thói quen nói gì cũng “tất nhiên”. Chẳng hạn xã có khách người ta hỏi hắn: “Có tổ chức tiệc đãi khách không anh?”. Hắn bảo: “Tất nhiên”. Họp mít tinh có ai hỏi: “Anh đọc diễn văn chứ?”. Tùng cũng: “Tất nhiên”. Và rồi lúc vợ Tùng chửa, người ta hỏi: “Con trai chứ?”. Tùng cũng: “Tất nhiên”. Thế là quen miệng, người ta gọi Tùng là: “Anh tất nhiên”. Từ khi anh “Tất nhiên” làm chủ tịch xã, chính anh ta đang có nhiều chuyện lùm xùm làm nhiều người dị nghị, mà Hoành thì không ưa Tùng. Chuyện do là chị Hơ, một người phụ nữ thân cô thế cô, chị không lấy được chồng nhưng có một căn nhà nhỏ trên ba sào đất đầu làng, đây là mảnh đất hương hỏa bố mẹ Hơ đã mất để lại cho chị. Theo như chị Hơ thì chị có vay của vợ chồng Tùng đúng một trăm triệu để sửa lại căn nhà và mở một cái quán nhỏ với lãi suất thỏa thuận. Nhưng sau chừng hơn một năm, Tùng cho dân quân đuổi chị Hơ ra khỏi mảnh đất của chị và tuyên bố chị Hơ đã bán ba sào đất này cho Tùng. Chuyện tá hỏa mới vỡ lẽ ra là chị Hơ bán ba sào đất cho Tùng chứ không phải chị vay tiền. Thực tình thì chị Hơ không có chữ, lúc chị vay tiền, Tùng có đưa cho chị một mảnh giấy và bảo chị điểm chỉ vào. Từ mảnh giấy này, Tùng đã làm xong sổ đỏ đứng tên Tùng từ lúc nào chị Hơ không biết. Chuyện vỡ lở làm chị Hơ choáng váng, nhiều ngày liền chị Hơ khóc lăn lóc trên mảnh đất của mình. Có người đưa chị Hơ lên huyện kiện mấy lần, nhưng rồi “án tại hồ sơ”. Tòa xử thắng cho Tùng. Tất nhiên, theo cách nói của Tùng, nể tình người làng, Tùng cho chuyển chị Hơ đến một mảnh đất khác của hắn, làm cho chị một căn nhà nhỏ có năm chục mét đất chứ không để chị phải ra đường. Ba sào đất hương hỏa của chị Hơ nghiễm nhiên trở thành của Tùng. Bây giờ xã mở đường lớn, mảnh đất ấy trở nên giá trị. Tùng cắt ra một sào, chia lô xây nền, bán liền năm suất thổ cư, mỗi suất hơn năm trăm triệu đồng. Nghe nói Tùng được làm chủ tịch xã cũng có phần phù trợ từ mảnh đất của chị Hơ. Chuyện đó chả biết có đúng không? Nhưng từ khi trở thành chủ tịch xã, Tùng “anh tất nhiên” thực hiện một số biện pháp kinh tế mà Tùng gọi là: “Tất nhiên phải đẩy mạnh chiến lược ngân sách xã”. Tùng cho tăng thu các mức phí, từ phí chợ hôm, chợ mai đến phí bến bãi cá, rồi việc Tùng cho bán một số khu đất vốn lâu nay xã làm sân chơi cho trẻ con, bán cả cái thửa rộng 5 ha mà hàng ngày đám thanh niên vẫn thường làm sân thể thao. Tiền bán đất của xã sau khi đã nộp phần trăm về huyện, số còn lại Tùng có dùng xây mấy trụ sở thôn. Chỉ trong mấy năm, quỹ của xã phình to, Tùng cho để ngoài sổ sách một số tiền khá lớn dùng vào những công việc mà Tùng gọi là “đối ngoại”. Điều này thì Hoành biết, Nụ - vợ Hoành cũng biết. Năm ấy Nết, con gái Hoành đã học năm cuối đại học Luật. Vợ Hoành nói với Hoành:
- Em biết anh không hợp với chủ tịch xã, mà em cũng thấy anh ta dùng tiền của xã tùy tiện lắm. Nhưng biết làm thế nào, người ta có ô, có lộng, anh đừng khuấy lên mà vạ vào thân.
Hoành bực bội:
- Mình sợ gì, thằng cha này còn nhiều tham vọng, mà lại tham vọng cá nhân, ích kỷ chứ có vì ai đâu?
Vợ Hoành gật đầu:
- Biết rồi. Bao nhiêu chuyện trái khoáy ai cũng phải bưng mắt, bưng tai. Nhưng tiền quỹ, đôi lúc anh ấy cũng sân siu cho mình, hồi này con Nết cần tiền học thêm ngoại ngữ, rồi mua máy tính, nhiều khoản phải chi, em cứ phải gửi thêm cho con.
Một hôm đang giữa đêm, Hoành lay vợ dậy:
- Anh bảo này: Hôm trước xã tổ chức đi du lịch ở Hạ Long, thằng Tùng cho em cùng đi, còn anh thì ở nhà là ý làm sao?
Vợ Hoành nhăn mặt:
- Việc đó sao anh lại hỏi em. Chủ tịch bảo cán bộ chủ chốt đi hết, anh phải ở nhà phụ trách chung.
Hoành lôi vợ ngồi trộc dậy, gắt:
- Anh nghi thằng Tùng có ý với em, từ lâu rồi, em nói thật đi. Có phải nó “sân siu” tiền quỹ cho em là muốn tán tỉnh em không?
Vợ Hoành giãy nảy:
- Không phải. Anh biết em có phải là người như thế đâu.
Hoành càng cáu:
- Sao em không nói thật. Em tưởng anh không biết à. Anh nghi từ lâu rồi.
Vợ Hoành thú thật:
- Đúng là anh ta có ý đó. Hôm đi Hạ Long, nghỉ ở khách sạn, nửa đêm anh ta gọi điện thoại cho em, nhưng em không cầm máy. Rồi anh ta gõ cửa phòng em. Nhưng em không mở. Đúng là anh ta có nằn nì, gạ gẫm em. Nhưng em không chịu, thằng cha mắt ti hí ấy, đừng hòng lay chuyển được em. Nhưng anh đừng làm to chuyện, không hay đâu.
Hoành tin vợ, anh khẽ gật đầu:
- Biết rồi, anh tin em. Nhưng có lẽ anh sẽ kiện hắn, anh không chịu được nữa rồi. Trong làng, trong xã nhiều người bức xúc lắm.
Vợ Hoành nhướng mày:
- Anh kiện về chuyện gì, có gì cụ thể để anh kiện được.
Hoành nheo mắt:
- Có ba việc phải kiện. Một là vụ nhà ông Tước ở xóm Bến, cả hai cụ đều bảy mươi tám tuổi, con cháu đi xa đóng sẵn cho hai cụ hai bộ áo quan, khi thu lệ phí làm đường, phí dân nuôi, hai cụ không có tiền đóng, hắn đã bắt công an xã chở cả hai bộ áo quan về trụ sở, dọa tịch thu. Hai là chị Tư xóm Bắc cũng vì không đủ tiền nộp sản, nộp lệ phí vì con ốm nặng, hắn cũng cho dân quân mạnh của xã tịch thu hai cái quạt của chị ta giữa ngày tháng năm nóng nực. Còn chuyện này em cũng biết rồi. Hôm chị Hơ la lối dọc đường, ông Công đứng với mấy người ở sân ủy ban xã, ông ấy có nói vui, ông ấy bảo: Ngày xưa, ở kinh thành thường treo một cái trống ngoài cửa triều đình, hễ dân ai có chuyện oan ức thì đánh trống lên, sẽ có quan ra hỏi chuyện, giải quyết. Bây giờ kể xã nào, thôn nào cũng nên có một cái trống. Tùng nghe thấy, hắn báo cáo với công an huyện, nói rằng ông Công nói xấu chế độ, có tư tưởng phản động. Công an huyện gọi ông Công lên suốt mấy tháng trời rồi mới thôi, có phải tội chụp mũ quy oan cho người ta không?
Vợ Hoành đáp lại:
- Anh đúng là bố luật sư, chả trách anh cứ đòi con thi vào đại học Luật. Nhưng em nói anh thôi đi, anh mà kiện, không khéo chính anh bị vạ thì khổ mẹ con em.
Thế nhưng Hoành không chịu. Hoành đầu đơn kiện Tùng. Nhưng huyện bao che cho Tùng, Hoành thua kiện. Tùng lấy cớ bắt Hoành thôi việc, vợ Hoành cũng bị vạ lây, phải nghỉ luôn. Cả hai vợ chồng Hoành đang là cán bộ xã, đùng cái mất việc, mất lương. Vợ chồng Hoành lâu nay vốn chỉ quen việc hành chính. Vì kiện chủ tịch xã mà trở nên thất nghiệp, không có việc làm, không có gì để thu hoạch. Năm đó cái Nết con gái Hoành vừa tốt nghiệp, mà tốt nghiệp loại khá nhưng Nết mang tấm bằng đi gõ cửa nhiều cơ quan mà không nơi nào nhận. Nết cũng có dự tuyển thi công chức mấy lần, có lần điểm rất cao nhưng không được gọi. Có người chuyên lo chạy việc từ trên thị trấn nói với vợ chồng Hoành muốn cho con có việc làm hẳn hoi thì phải có một khoản tiền lớn. Vợ Hoành nhăn nhó với chồng:
- Nhà mình bây giờ cơm còn chả đủ, lo đâu được mấy trăm triệu. Có bán nhà ra bờ biển ở tạm thì cũng chỉ được hơn một trăm, làm thế nào bây giờ? Con bé lớn rồi, không có việc, nó sao lấy được tấm chồng hẳn hoi?
Hoành nghe vợ rên rỉ não cả ruột. Hắn bắt đầu căng óc ra tính toán. Hắn nghĩ rằng cái làng Ngang này những người làm nghề ngư không có ai giàu. Những kẻ có máu mặt trong làng phất lên chủ yếu là mấy anh thầu xây dựng, ăn bớt các công trình công cộng. Hắn không có khả năng ấy, vì ít ra làm nghề thầu xây dựng cũng phải có thân có thế, hơn nữa hắn không biết mánh lới. Một số kẻ khá giả khác vì có chức có quyền, nắm giữ kinh tế ở các ngành, một vài người buôn chuyên nghiệp gặp may phất lên. ừ, hay đi buôn vài chuyến, thử vận may coi sao. Hắn nghĩ thế rồi hắn bàn với vợ:
- Hồi này mực được nhiều, mấy nhà chở mực khô lên biên giới trúng đậm. Vợ chồng mình cứ làm theo họ coi.
- Nhưng nhà mình làm gì có tiền mua hàng?
Hắn gãi đầu:
- Nhà mình có cái xe máy bán nó đi cũng được hơn chục triệu, coi như đã có tiền thuê xe, đi đường. Mà mình là người sống chí tình với bà con ngư dân, ai cũng thương mình. Mình mua chịu, bán được hàng, trả vốn ngay cho họ, lãi mình hưởng.
Vợ hắn nghe theo. Quả nhiên nhiều người tin hắn bán chịu hàng cho hắn. Vợ chồng hắn đi một chuyến mực cùng mấy nhà buôn trong làng lên biên giới. Không ngờ khác với mấy lần trước, lần này cánh buôn Trung Quốc ngừng nhập mực. Thế là hắn lỗ, lỗ to. Vợ hắn lo sợ ngồi khóc. Hắn bảo:
- Thôi khóc mãi thì giải quyết được gì. Bà con người ta cũng hiểu đấy. Những người mình mua hàng có ai đòi gắt mình đâu. Từ từ rồi mình làm lại. Cháo húp quanh công nợ trả dần.
Vợ hắn gạt hai hàng nước mắt:
- Nhưng lấy tiền đâu lo việc cho con bé. Tôi nhìn thấy con bé cứ ngơ ngác mà thương, không khéo nó không có việc, rồi ế chồng.
Một hôm vào lúc chiều muộn có một đoàn xe tháp tùng một vị lãnh đạo Trung ương về thăm xã. Bà con trong làng Ngang kéo nhau ra đường ngó ngó, nghiêng nghiêng. Đột nhiên có tiếng la lên nhao nhao:
- Xe chẹt người. Chết rồi, trời ơi. Xe ông to chẹt người.
Cả làng Ngang xúm lại kéo từ gầm xe ra một người máu me lênh láng cả đôi chân, họ nhận ra Hoành. Vợ Hoành nghe tin chạy ra đến nơi nhìn thấy chồng thì ngất xỉu.
- Trời ơi, anh lái xe như thế nào thế này?
Anh lái xe mở cửa ngơ ngác:
- Dạ, cháu lái đúng đường, sao lại tông phải chú ấy nhỉ?
- Lái đúng đường mà tông phải người à?
- Thôi cấp cứu người đã, đưa người bị tai nạn lên xe, chở đi bệnh viện ngay - Ông cán bộ Trung ương lo lắng ra lệnh cho người lái xe.
Tối hôm đó là một buổi tối bận bịu của trụ sở ủy ban xã Bến. Chủ tịch xã phân công người cùng cán bộ đoàn công tác lên bệnh viện đôn đốc việc cứu chữa cho Hoành rồi tập trung tiếp khách. Đoàn cán bộ Trung ương có cả cán bộ tỉnh, huyện đi theo đều lo lắng. Nhưng được một lúc bệnh viện điện về Hoành chỉ bị sây sát ở hai bàn chân và bắp đùi. Các bộ phận quan trọng vẫn bình thường. Hú vía. Nhưng vợ con Hoành kêu khóc, la lối thảm thiết nhất định đòi ông cán bộ to nhất của đoàn phải chịu trách nhiệm. Điều đó thì rõ rồi. Ông cán bộ trưởng đoàn nói rằng ông rất lấy làm tiếc vì sự việc không may xảy ra và đích thân ông, sau khi đã làm việc với xã xong, ông bảo một chiếc xe khác trong đoàn đưa ông lên tận bệnh viện thăm người bị xe đâm.
Sau này, mấy người đưa Hoành lên bệnh viện đều cảm thấy Hoành có thái độ rất lạ. Mặc dù vết thương của Hoành không nặng lắm, nhưng Hoành rên la ghê gớm và một mực đòi bồi thường. Cuối cùng ông cán bộ to của Trung ương phải nhượng bộ:
- Thôi thế này - Ông nói - Cậu lái xe nói cậu ấy đi không sai, nhưng sai đúng gì thì xe cũng đã gây thương tích, chúng tôi đồng ý bồi thường, anh tính xem nên phải bồi thường cho anh bao nhiêu để đoàn còn đi công tác các tỉnh khác, thời gian chật vật lắm.
Hoành nhăn nhó rồi nhắm mắt lại, một lúc sau hắn đưa ra một mức tiền khá lớn: “Hai trăm triệu đồng”.
Ông cán bộ Trung ương và mọi người đưa mắt nhìn nhau nhưng rồi họ cũng chấp nhận:
- Thôi cũng may không chết người. Người mà chết thì mình mang tiếng to.
Hoành nằm ở bệnh viện chừng nửa tháng rồi về nhà. Hắn không ló mặt ra hè nhà, hễ có người đến thăm hắn lại lên giường rên ư ử. Một buổi tối lên giường nằm bên chồng, vợ hắn hỏi, giọng xúc động:
- Mình tính thế nào với số tiền to thế này? Hay trả bớt món nợ buôn mực biên giới đi nhá?
Hoành dí ngón tay vào mặt vợ:
- Khẽ cái mồm chứ. Tai vách mạch rừng. Cái Nết ngủ rồi hả. Tao cố tình lao vào xe cái ông to ấy nhằm hi sinh đi cái chân kiếm khoản tiền lo việc cho cái Nết. Không ngờ cái chân không bị mất, mà có tiền, mà cả đôi chân vẫn còn nguyên đây. Số mình có khi cũng có quý nhân phù trợ. Nợ thì bà con người ta chưa đòi, hơn nữa chưa cần phải trả. Bấy nhiêu tiền dồn hết lo cho cái Nết.
Vợ hắn ôm chặt lấy chồng cười rúc rích:
- Chà, không ngờ bố mày cũng lắm mưu. Tôi mà biết bố nó định như thế tôi không cho, làm thế lỡ ra...
Hoành ngắt lời:
- Lỡ cái gì? Tao có chết thì mẹ nó có đứa khác ngay.
Vợ Hoành ngồi trộc dậy, giơ tay lên:
- Tôi vả vào cái mồm anh bây giờ, bỏ ngay cái thói ghen bóng, ghen gió ấy đi có được không?
Hoành cười:
- ừ, bỏ. Chuyện vừa rồi là do đường cùng thì phải liều, liều mà thắng quả đấy. Số tiền này ai hỏi gì mẹ nó cứ nói để chữa cho phục hồi đôi chân. Tiền thuốc bây giờ đắt lắm. Mẹ mày cứ nói thế. Để tao cố khập khễnh một thời gian nữa cho người ta khỏi để ý.
Nhưng rồi người để ý nhất đến hai cái chân của Hoành lại chính là “ông tất nhiên” chủ tịch Tùng. Sau buổi bận bịu tiếp khách Trung ương, Tùng để ý đến vụ tai nạn xảy ra đối với Hoành. “Tại sao chuyện lỡ chân ngã trước xe không xảy ra với ai mà xảy ra với thằng cha Hoành, cái thằng cha lúc nào cũng có ý phá mình? Nó có lớ ngớ thật không? Không thể. Mà người lái xe lại khăng khăng bảo mình đi đúng đường? Hay hắn cố ý? Đúng rồi, mình làm chủ tịch xã, hắn không ưa. Vào lúc mình mời được Trung ương về đầu tư dự án, chắc hắn muốn cho Trung ương ngại, rồi thôi đầu tư, để mình hỏng ăn, cả xã hỏng ăn, cái thằng cha Hoành này quá lắm”. Tùng nghĩ thế. Và khi biết Hoành bắt đền được hai trăm triệu, mà vợ nghe nói Hoành chạy lên thị trấn tìm lão Tất, cái lão chuyên lo chạy công chức thì Tùng ngồi lặng đi một lúc lâu. Đôi mắt lim dim của Tùng chau lại. Một lúc sau Tùng vỗ đùi:
- Thôi chết rồi, có khi thằng cha Hoành này giở trò thật rồi.
Hôm sau một mặt hắn phân công cán bộ xã mang quà đến thăm hỏi “thật kỹ” Hoành. “Tất nhiên, anh ấy cũng một thời công tác ở xã, mình phải quan tâm chứ!” - Hắn nói với mọi người như thế. Một mặt hắn đi tìm gặp những người cùng túa ra đường đón đoàn xe con hôm ấy để hỏi kỹ sự thể lúc xảy ra vụ tai nạn, động viên họ cố gắng nhớ lại diễn biến sự việc. Không những thế hắn ra tận Hà Nội tìm gặp người lái xe của ông trưởng đoàn hôm trước về xã. Đặc biệt, thằng Tú, con ông Phú phó chủ tịch xã cho Tùng xem cái cờ líp quay bằng điện thoại, tuy không rõ ràng lắm nhưng ghi được lúc đoàn xe đang tiến vào làng, Hoành đã lách đám đông chạy thẳng lại gần chiếc xe đi đầu, chiếc xe sang nhất ấy.
Mối thù Hoành kiện Tùng năm trước làm Tùng suýt nữa mất chức vốn âm ỉ nay lại trỗi dậy trong lòng Tùng. Tùng gặp lãnh đạo huyện, đưa công văn do chính Tùng ký yêu cầu huyện cho công an điều tra lại vụ tai nạn. Lập tức công an vào cuộc, họ tổ chức dựng lại hiện trường. Suốt gần một tháng trời, Hoành bị công an mời lên hàng chục lần. Và thật bất ngờ, cuối cùng Hoành phải thú nhận chính Hoành đã nghĩ ra và tạo nên cái tình huống xe huông vào mình. Thật trớ trêu, Hoành phải nộp lại số tiền mà ông cán bộ Trung ương đã bồi thường. Đúng là lợi bất cập hại. Một lần nữa nhà Hoành trở nên trắng tay, vợ chồng Hoành hoang mang nhiều ngày. Bà con trong làng Ngang, xã Bến cũng bàn ra, tán vào:
- Gớm, cái lão Hoành thế mà to gan.
- To gan quá, ai lại dám chơi khăm ông to nhà nước.
Chủ tịch Tùng “ông tất nhiên” thì bảo:
- Tất nhiên là vỏ quýt dày phải có móng tay nhọn chứ. May mà hắn còn thành thật thú tội, trả tiền cho người ta, chứ nhẽ ra người ta phải xử hình sự đối với hắn vì cố tình gây nên tai nạn.
Nết thương bố mẹ nên an ủi:
- Tại bố cả. Bố bày ra cái trò vớ vẩn ấy làm gì mang tiếng. Con không làm công chức thì con sẽ tìm việc làm gì phù hợp có sao đâu. Có bao nhiêu đứa bạn con không làm việc cho nhà nước mà vẫn sống bình thường, vẫn lập được gia đình. Bố mẹ đừng quá lo lắng cho con nữa.
Nhưng không lo lắng sao được. Nhà hắn vốn đã khó khăn lại càng rơi vào khó khăn hơn. Vợ chồng Hoành coi như thất nghiệp. Nết coi như hết hi vọng xin việc làm, thằng con thứ sắp học hết trung học phổ thông, không dám nghĩ đến kỳ thi đại học. Đang lúc khốn khó thì Trinh, người đàn bà trước đây được Hoành đưa đi bệnh viện mổ đẻ đến thăm. Chị Trinh bảo:
- Ơn anh ngày trước em biết lấy gì trả. Đấy, con bé nhà em may nhờ anh nay cháu khỏe mạnh, lớn rồi, cháu học lớp một rồi đấy. Thiên hạ cười mãi rồi cũng thôi. Biết anh chị đang bí, em bàn thế này: Em có ít tiền dành dụm được, muốn cho anh chị vay.
Hoành ngơ ngác:
- Tiền à, nhiều không?
Trinh đáp:
- Không nhiều, nhưng đủ mua một cái xe máy.
Vợ Hoành cau mặt:
- Cái ăn hàng ngày còn chưa đủ, mua xe làm gì, xe để anh ấy rảo lượn à?
Trinh khẽ cười:
- Không phải. Em thấy xã ta có mấy người lên thành phố đi xe ôm, có người còn chạy xe trên cả Hà Nội. Nhiều người kiếm ra tiền đấy, hơn cả đi buôn. Mà vốn là cái xe lúc nào cũng còn, chỉ phải chi phí tiền xăng, dự trữ trong túi mấy đồng.
Hoành vỗ đùi:
- Phải đấy. Xe ôm thì tôi làm được. Sao mình không nghĩ ra nhỉ. Ngày trước nhà có xe, thỉnh thoảng có ai nhờ chở đi xa có việc, tôi vẫn chở đấy thôi. Xe máy thì tôi thạo. Từ khi nhà bán xe máy đi, tôi cũng buồn lắm.
Thế rồi vợ chồng Hoành đồng ý vay tiền Trinh mua ngay một cái xe máy mới tới gần hai chục triệu đồng. Vợ Hoành bảo:
- Mình đi xe ôm thì tôi chỉ ngồi nhà mà lo. Hồi này ti vi đưa tin có nhiều kẻ cướp đường hay giả vờ nhờ chở đường xa, đường vắng, nhất là đi đêm rồi cướp xe. Có người bị giết chết, mất cả xe đấy. Hay là thế này, mình cứ phải cho tôi ngồi theo sau.
Hoành nhăn mặt nhìn vợ:
- Ngồi sau thì không được rồi. Công an thấy chở ba là bắt, phạt chết. Mẹ nó cứ yên tâm ở nhà chăm hai đứa. Tôi sẽ không bao giờ chở người đi đường vắng, chở đêm. Mà nhìn mặt khách tôi mới chở. Những đứa thanh niên mặt mũi táo tợn thuê đắt mấy tôi cũng không đi.
Vợ Hoành ngần ngừ một lúc rồi cũng phải đồng ý. Hôm sau Hoành lái xe ra thành phố. Từ làng Ngang của Hoành ra thành phố hơn hai chục cây số. Sáng Hoành thức dậy sớm, rửa mặt ăn vội vã bát cơm nguội, làm bát nước ấm rồi đội mũ lên xe vù ra ngõ. Mặc cho vợ Hoành nhìn theo ái ngại.
Đang giữa mùa hè, thành phố hơn nửa triệu dân với những dãy nhà cao ngất, choáng ngợp, từng dòng người di chuyển trên những con đường bằng những chiếc xe hơi, xe máy làm cho thành phố trở nên ngột ngạt và oi bức. Hoành dừng lại ở ngã tư, chỗ có dãy ghế dưới cái mái che. Hoành biết đó là bến xe buýt. Một số người đi xe ôm đang đứng lố nhố. Thấy Hoành đến, vài người liếc mắt nhìn nhau. Một gã thanh niên tóc húi trọc tiến lại gần Hoành:
- ở đâu đến đấy?
Hoành nhoẻn cười:
- Tôi ở quê mới lên.
- Hay đấy. Kiếm ăn được mấy chuyến rồi?
Hoành khẽ lắc đầu:
- Hôm nay đi khai trương.
Gã thanh niên cười gằn:
- Thế biết luật chưa?
Hoành ngơ ngác hỏi:
- Luật gì ạ?
Gã thanh niên cười gằn:
- Lại còn giả ngây, giả ngô nữa hả. Được. Chờ đấy rồi biết hết.
Đúng lúc ấy chiếc xe buýt đỗ lại. Mấy người bước xuống xe. Đám xe ôm dồn tới:
- Bác áo xanh của tôi.
- Chị đội nón đi với tôi.
Một bác xách cái túi nhỏ nhìn Hoành rồi nhìn cái xe bảo:
- Anh chở tôi đến phố Hàng Nón, nhà số 37.
Hoành hứng khởi đưa cho ông khách một cái mũ bảo hiểm. Chờ ông khách ngồi yên sau xe, Hoành từ từ cho nổ máy rồi lách xe đi. Đường thành phố Hoành chưa quen lắm. Hồi còn làm cán bộ xã, nhiều lần Hoành cũng có việc ra thành phố. Nhưng cái phố Hàng Nón, thì Hoành chưa biết nên thỉnh thoảng Hoành phải dừng xe hỏi đường.
Cuối cùng phải một lúc lâu Hoành mới đưa khách đến nơi cần đưa.
Một lúc sau Hoành quay trở lại chỗ cũ. Đám xe ôm xúm quanh:
- Ê, ông bạn mới toanh. Kiếm được khá chứ. Tiền đâu?
Hoành ngơ ngác:
- Gì ạ?
- Gì hả?
Gã thanh niên tóc húi trọc sấn lại:
- Vẫn không biết luật hả. Kiếm được bao nhiêu thì nôn ra đây?
Vừa nói gã vừa giơ nắm đấm dứ dứ sát mặt Hoành. Mấy tay xe ôm cũng dựng xe vây quanh. Cuối cùng Hoành phải móc ra tờ bạc hai chục đồng khách vừa đưa cho. Một lúc sau Hoành dắt xe lỉnh đi chỗ khác. Suốt ngày hôm ấy, Hoành vòng đi vòng lại trên mấy con đường cũng chỉ đi được hai ba cuốc, đủ tiền xăng.
Ngày hôm sau Hoành lại lên thành phố. Có người nói với Hoành những người mới vào nghề xe ôm thường phải đến cửa ga tàu hỏa, ở đấy đông khách, không ai cát cứ, chiếm chỗ. Thế là Hoành tìm đến sân ga.
Đang trưa, một chị ăn mặc khá sang trọng, người sức nước hoa đi vào sân ga, đi vào chỗ mua vé, nhưng chị chỉ ngó nghiêng rồi trở ra. Mấy người xe ôm sán lại:
- Chị về đâu tôi đưa chị về. Chị ta nhìn từng mặt người. Cuối cùng chị đến bên Hoành, bảo:
- Anh đưa tôi về nhà.
Đấy là một câu chuyện cho đến bây giờ Hoành vẫn còn bâng khuâng. Đưa chị ta về nhà, chị không trả tiền đi xe trước cổng nhà mà bảo Hoành dắt xe vào sân. Đấy là một ngôi nhà năm tầng trong khu đô thị mới của thành phố. Chị ta bảo Hoành:
- Anh vào nhà uống nước đã, trời nóng quá.
Hoành nghe lời chị ta bước vào phòng khách. Chị khóa cổng lại. Vừa rót nước mời Hoành chị vừa nói như phàn nàn:
- Nhà chả có ai, em có mỗi đứa con gái lớn lấy chồng tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Thế anh nhà đâu? - Hoành bất giác hỏi.
Chị lắc đầu:
- Anh ấy mất lâu rồi. Tôi ở vậy mà anh. Này, anh đi xe cả ngày ngoài trời, ta vào trong này có điều hòa, làm cốc bia cho mát rồi đi. Tủ lạnh chứa bia mà không có ai uống.
Hoành ngần ngại. Nhưng rồi thấy nói đến bia Hoành ứa nước miếng. Hồi làm cán bộ xã, ngày nào mà chả có bia. Hoành ậm ờ đứng lên bước theo chị chủ nhà. Phải nói lần đầu tiên được ngồi trong căn phòng mát lạnh và yên tĩnh, được uống cốc bia tươi mát rượi, nói chuyện với người phụ nữ thành phố làm Hoành cứ bối rối. Càng bối rối hơn khi chị ta ngồi xích lại gần Hoành. Nhưng rồi Hoành bình tĩnh lại, người lâng lâng. Chả hiểu sao những cử chỉ của chị làm Hoành xốn xang. Người Hoành rạo rực khi bàn tay của chị chạm vào bàn tay Hoành:
- Em ở đây có một mình mà anh.
Câu nói thỏ thẻ ấy thốt lên mấy lần cho đến khi Hoành và chị ta quấn vào nhau trên chiếc giường đệm êm ru kê ngay sát bộ bàn ghế hai người vừa ngồi lúc nào không biết nữa. Trưa hôm đó Hoành làm xong cái việc mà cho mãi chiều tối khi Hoành về đến nhà, Hoành vẫn chưa hết bàng hoàng. Hoành nhớ lúc hối hả mặc quần áo, chạy ra ngoài lấy chiếc xe máy dắt ra cửa. Hoành nổ máy ngay, chị chạy ra giữ tay làm Hoành hoảng hốt, miệng Hoành lắp bắp:
- Chị ơi. Từ sáng đến giờ chị là người mở hàng, tôi chưa có đồng nào.
Hoành nói, giọng lạc đi. Hắn lộn túi áo như để chứng minh cho chị ta biết mình là người thật thà.
Chị dí ngón tay vào trán Hoành:
- Anh tưởng tôi là gái làm tiền à?
Nói rồi chị đặt vào tay Hoành một tờ bạc năm trăm nghìn mới cứng. Chị mở cửa cho Hoành ra.
Một hôm Hoành ế khách, chiều tối Hoành cho xe lượn lờ trước cửa nhà chị. Chị đang đứng trước cửa như chờ Hoành. Cũng mấy lần như thế. Sau này Hoành biết chị có tên là Tơn, chị làm việc ở một ngân hàng thành phố. Chị tâm sự:
- Chồng em chết đã lâu. Nhưng em bị một cái bệnh rất lạ. Một tháng không chung chạ với đàn ông thì em ốm. Lạ lắm. Trước đây em có bồ bịch với một anh cùng cơ quan, rồi bị đánh ghen, em sợ lắm, không dám chơi thân với anh nào nữa. Trông anh “bảnh bao”, đẹp trai, khỏe mạnh thế sao phải đi xe ôm?
Hoành nói rõ hoàn cảnh mình. Nói với Tớn về nỗi lo phải xin việc cho con gái.
- Em có anh trai làm việc ở ngành thanh tra, lãnh đạo hẳn hoi, để em hỏi xem có giúp được cho anh không. Học pháp lý, thi công chức vào ngành thanh tra thì hợp đấy.
Một hôm trở về nhà. Đưa tiền cho vợ, vợ Hoành cứ trố mắt nhìn Hoành:
- Bố mày nhặt được tiền à...?
Bất giác Hoành nói dối:
- Anh nhặt được cái ví người ta đánh rơi, anh báo công an. Người mất tìm được ví mừng lắm. Trong ví có giấy tờ và nhiều tiền nên người ta cho anh đấy.
Vợ Hoành bảo:
- Số anh thỉnh thoảng có quý nhân phù trợ. Này cái thằng cha “tất nhiên” Tùng, chủ tịch xã ấy, thăng quan rồi. Huyện thăng hắn lên làm phó chủ tịch huyện.
Hoành cau mặt:
- Nói thế nào chứ. Hắn có học hành gì đâu mà được lên huyện làm phó chủ tịch.
- Thế mà có đấy. Nghe nói có bằng đại học. Chả hiểu ra làm sao nữa.
Có thật. Khắp làng Ngang đang xôn xao. Ai cũng bảo cái gã chẳng học hành gì, làm việc chỉ vụ lợi lại được thăng quan tiến chức. Một hôm Hoành đem chuyện đó nói với Tớn:
- Tôi cùng mấy người trong xã viết đơn kiện. Chị giúp tôi.
Hoành viết đơn thật. Tớn đưa cho anh trai ở thanh tra. Mấy hôm sau huyện Hà nháo nhác về chuyện phó chủ tịch huyện mới được đề bạt bị truất chức vì bằng giả. Trong huyện điều tra ra có mấy cán bộ dùng bằng giả.
Hoành biết tin mừng lắm, bởi những điều đẹp đẽ mà hắn tin tưởng ở cuộc sống này là có thật. Nhưng lòng hắn vẫn còn chút gì đó nằng nặng như tảng đá cứ đeo chặt, đó là vẫn chưa thể lo cho con gái hắn một công việc làm ổn định. Nhưng có là gì, ở một xã hội phát triển từng ngày một như bây giờ, lo gì con gái hắn không có cơ hội, không có chỗ đứng để khẳng định mình. Làm việc gì chẳng được miễn sao là chân chính, miễn sao là thanh thản trong lòng. Hoành nghĩ thế, miệng hắn huýt lên điệu nhạc vui vẻ, rộn ràng hoà vào không gian mặn mòi của biển.
N.V.Đ