Mùa xuân về từ biển (Ghi chép) - Hỏa Diệu Thúy
Đi thực tế sáng tác dường như đã trở thành nhiệm vụ đối với văn nghệ sỹ nước nhà. Những chuyến đi thực tế, không chỉ giúp cho nhà văn mở rộng đề tài phản ánh, giúp họ hiểu hơn về nhân dân, đất nước và dân tộc mình, thấu cảm hơn với đời sống quần chúng, thắp lên niềm cảm hứng mãnh liệt trong sáng tác.
Năm 2019, tỉnh Thanh Hóa sẽ tổ chức một sự kiện chính trị - văn hóa lớn, đó là sự kiện kỷ niệm 990 năm Danh xưng Thanh Hóa. Ngót một nghìn năm, mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này không chỉ dựng xây nên đặc sắc văn hóa xứ Thanh mà còn góp phần xây dựng truyền thống nghìn năm văn hiến dân tộc. Trong con mắt của các nhà nghiên cứu nước ngoài, xứ Thanh Hoa ngang với xứ Bắc Kỳ (bao gồm các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng). Xứ sở ấy khiến nhà địa phương học người Pháp Le Breton từng ngưỡng mộ: Nơi đây “không có một kỳ sơn nào mà không gắn với truyền thuyết”, Thanh Hóa đối với Việt Nam, “là nơi lưu giữ những ký ức lịch sử và truyền thuyết hào hùng nhất”, “Thanh Hóa là nơi căn bản của nước Nam” (Laprovince de Thanh Hoa). Viết về mảnh đất hào hùng và lãng mạn này vừa là niềm tự hào, vừa là trách nhiệm của những cây bút xứ Thanh. Hiện thực cuộc sống sẽ trở nên bất tử nhờ sáng tạo nghệ thuật, và ngược lại, sáng tạo luôn bắt nguồn và được chắp cánh từ thực tiễn đời sống. Vì vậy, mối quan hệ thực tiễn - văn chương vừa là quan hệ tương hỗ ngọt ngào, vừa là quan hệ vay - trả sòng phẳng.
Được sự đồng ý của Thường trực Hội VHNT Thanh Hóa, các ban chuyên ngành đồng loạt tổ chức các chuyến đi thâm nhập thực tế vào cuối năm 2018, “phủ sóng” nhiều địa phương trong tỉnh. Lần đầu tiên ban Lý luận phê bình khởi động cho hoạt động thực tế, với mục tiêu rõ ràng: phát hiện lại những sắc màu văn hóa truyền thống trên địa bàn tỉnh, vừa nghiên cứu, giới thiệu điểm sáng xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Nếu các đoàn khác chọn “lên rừng” thì ban Lý luận phê bình lại chọn “xuống biển”. Xuống biển ngày đông, có thể sẽ nhận ra điều gì mới mẻ chăng?
1. Sầm Sơn lặng lẽ “ngủ đông”
Điểm tiếp cận đầu tiên của đoàn là thành phố du lịch biển Sầm Sơn. Sầm Sơn vào những ngày cuối năm, lễ giáng sinh cận kề, giáo đường được trang hoàng rực rỡ, còn lại mọi thứ dường như đang khép cửa... ngủ đông, yên ắng đến không ngờ. Đường Nguyễn Du thi thoảng mới có bóng một chiếc xe vụt qua, đường Hồ Xuân Hương, rộng thênh thang, chả bù cho những ngày tháng năm, tháng sáu, đông như hội, chật như nêm. Từ khi Sầm Sơn mặc bộ cánh Thành phố Sầm Sơn, sự khởi sắc ở một thành phố du lịch biển đã có những bước tiến quan trọng và rõ rệt. Năm 2017, thành phố du lịch đã đón 4,2 triệu lượt khách, doanh thu đạt 3.065 tỉ đồng, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước; năm 2018 đón 4,285 triệu lượt khách, doanh thu 3.660 tỉ đồng. Nhưng Sầm Sơn dường như chỉ làm du lịch vào mùa hè, giờ thì các khách sạn, nhà nghỉ dọc theo bãi biển đều lặng vắng. Sầm Sơn sau những ngày hè khẩn trương, sôi động, gấp gáp giờ đang nghỉ ngơi, thư giãn chờ đến vụ sau.
Bãi cát dài sạch đến tinh khôi, nước biển trong vắt, những con sóng lăn tăn tinh nghịch, đùa giỡn với bãi cát vàng mịn màng, đẹp đến nao lòng. Đi dạo trên bãi biển, sát mép nước để đôi chân được mơn man trong cát và làn nước trong vắt, thấy lòng mình trở nên thư thái, nhẹ nhõm. Ngắm bãi cát dài hút mắt, biển mênh mông huyền ảo, không gian thoáng đãng, trong lành... Tài sản vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho xứ Thanh đây chứ đâu. Không phải tự nhiên hơn một trăm năm trước người Pháp chọn Sầm Sơn chứ không phải Bãi Cháy hay Vũng Tàu làm nơi nghỉ dưỡng cho giới nhà giàu, chính khách. Vua Bảo Đại từng có nhà nghỉ tại đây, trên dãy Trường Lệ. Từ trong sâu thẳm, không gian Sầm Sơn được dệt nên bởi màn sương văn hóa vừa cổ kính vừa trữ tình lãng mạn với hàng chục đền thờ những anh hùng tiền liệt, những người mở cõi, lập nghề: đền thờ An Dương Vương, đền thờ Thái úy Tô Hiến Thành, đền thờ Bà Triệu, đền thờ phủ đô hầu Trương Đức Dong v.v... Trên dãy Trường Lệ là một kho di tích lịch sử và danh thắng độc nhất vô nhị. Chả có nơi nào trên đất nước này có truyền thuyết và đền thờ vị thần xả thân cứu dân độ thế, xẻ đôi thân mình, nửa trấn uy che chắn phía biển, nửa trấn giữ đất liền, bàn chân của thần vẫn còn dấu tích nơi nhân dân lập đền thờ, vì vậy, ngài có tên là thần Độc Cước. Vẻ đẹp sơn thủy hữu tình nơi đây đến thần tiên cũng mê đắm nên các nàng tiên vẫn thường xuống dạo chơi, vẫy vùng sóng nước. Nơi các nàng hạ cánh giấu xiêm y, đùa giỡn cùng sóng nước nhân dân lập đền thờ gọi là đền Cô Tiên. Riêng cặp tình nhân huyền thoại hóa đá - Trống Mái đã đi vào những trang viết của Khái Hưng từ năm 1936, để rồi đến nay đủ để biến không gian này thành không gian lễ hội tình yêu.
Thế mà nơi đây chỉ thu hút được khách du lịch đến vào mùa hè. Có lãng phí không khi Sầm Sơn chưa phải là địa chỉ đón khách bốn mùa? Và chiến lược nào để níu chân khách nghỉ lại thăm thú chiêm ngưỡng cảnh quan danh thắng Sầm Sơn? Làm thế nào để níu chân khách bốn phương? Đầu tư của Sầm Sơn sẽ cần hướng đến những đối tượng nào? Làm thế nào để không xảy ra xung đột giữa kinh tế và văn hóa? Như vậy, để tổ chức và quản lý một thành phố hàng đầu về du lịch cần một chiến lược dài hơi, dứt khoát không thể dùng tư duy nhiệm kỳ, gánh nặng và cũng là vinh dự đặt lên vai những nhà quản lý hiện nay.
2. Nội lực Quảng Xương
Điểm đến thứ hai của đoàn là huyện Quảng Xương, sức hấp dẫn đưa chúng tôi đến Quảng Xương vì được biết huyện đang khẩn trương hoàn thiện những khâu thẩm định cuối cùng để đạt danh hiệu “Huyện nông thôn mới” về đích năm 2018. Thế là sau 8 năm (triển khai năm 2010), lặng lẽ nhưng quyết đoán của các thế hệ lãnh đạo và nhân dân, mục tiêu Quốc gia về xây dựng Nông thôn mới với Quảng Xương đã cán đích trong sự ngạc nhiên và thán phục của nhiều “huyện bạn” trong tỉnh. Đại diện lãnh đạo huyện đón tiếp chúng tôi tại phòng họp ủy ban và cung cấp những thông tin mới nhất về những kết quả xây dựng nông thôn mới với những chỉ tiêu hoàn hảo: 29/29 đạt 100% “xã nông thôn mới”. Sau Yên Định là Quảng Xương, khi Yên Định được công nhận “Huyện nông thôn mới” chỉ tiêu còn khá “mềm”, chỉ cần 70% xã hoàn thành “xã Nông thôn mới” nhưng đến thời điểm này thì phải đạt 100%.
Kết quả ấy là trái thơm của sức mạnh nội lực, sự hài hòa tuyệt diệu của “ý Đảng lòng Dân”. Quảng Xương được xem là huyện “đồng bằng” của Thanh Hóa, nhưng đó là đồng bằng đặc trưng miền Trung: nhỏ, vụn và không màu mỡ. Hình ảnh quen thuộc của làng xã Quảng Xương trước đây là những mái nhà màu nâu lợp bằng kè thấp thoáng dưới những vườn kè tỏa tán lá tròn hiền hòa. Ven những thửa ruộng ngăn thành những ô be bé là những rặng kè (thứ cây gần giống cây cọ). Bà con tận dụng bờ ruộng để trồng kè, vừa làm bóng mát đồng thời lấy lá để lợp nhà, làm chổi, tạo nên hình ảnh rất thanh bình. Cây kè gắn bó với người Quảng Xương gần như cây cọ với người Phú Thọ. Bây giờ, bộ mặt nông thôn Quảng Xương đã đổi khác, công cuộc xây dựng nông thôn mới với mục tiêu kiên cố hóa, ngói hóa nhà ở dân cư đã khiến những mái kè chỉ còn trong ký ức. Hiện nay trên địa bàn huyện 100% hộ dân không còn nhà tạm, dột nát, đảm bảo “03 cứng” với diện tích 14m2/ người trở lên. Đi vào trung tâm các xã: Quảng Lưu, Quảng Thái, Quảng Lợi, Quảng Nham... có cảm giác như đang đi giữa một phố thị sang trọng, nhà cao tầng san sát mà quy củ, đường rộng thoáng, sạch sẽ như phố, đi sâu vào các thôn xóm vẫn thấy một sự ngăn nắp, chững chạc như có từ thuở nào. Ngẫm ra, khi ý tưởng của chính quyền đi vào lòng dân thì người dân sẽ tự nguyện chấp hành và họ sẽ tự điều chỉnh chính gia đình mình sao cho vừa đẹp nhà lại vừa đẹp xóm. Nét văn hóa của ông cha “vừa mắt ta mới ra mắt người” thấy hiện hữu đáng ngưỡng mộ trong cách mà người dân Quảng Xương hưởng ứng công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Cuộc huy động tổng lực cả về vật chất lẫn tinh thần: khai thác và sử dụng thật khéo, chắt chiu nguồn ngân sách từ Trung ương, tỉnh, huyện, xã, đóng góp của nhân dân trên địa bàn và của cả con em thành đạt lập nghiệp nơi xa... tất cả đã chung tay để có được một Quảng Xương khang trang, đẹp đẽ như hôm nay. Tuy phải vượt qua nhiều khó khăn, bộn bề nhưng nhân dân đã đặt hoàn toàn niềm tin tưởng vào các cấp lãnh đạo địa phương và đoàn tàu “Nông thôn mới” mang thương hiệu Quảng Xương đã cán đích.
Mùa xuân về từ biển:
Quảng Xương có 14 km đường bờ biển. Trước đây, khi 3 xã Quảng Vinh, Quảng Đại, Quảng Hùng chưa cắt cho thành phố Sầm Sơn thì độ dài biển của Quảng Xương có lẽ dài nhất trong các huyện ven biển của Thanh Hóa. Tuy nhiên, kinh tế biển của Quảng Xương chưa bao giờ là điểm mạnh, bởi, bờ biển ở đây rất nông. Từ xa xưa người dân chỉ quen đánh bắt bằng dụng cụ thủ công gần bờ trừ Quảng Nham, tiếp giáp với Tĩnh Gia có bờ biển sâu và có lạch Ghép nên là xã có truyền thống đánh bắt xa bờ, các xã còn lại đều là bãi ngang. Tuy biển Quảng Xương nông và thoải dần, nhưng bù lại thiên nhiên lại ban tặng cho nơi đây cát mịn và nước rất trong. Bên cạnh đó vì không có những trục đường lớn xuống biển nên suốt dọc bãi biển Quảng Xương còn khá hoang sơ, thảm sa mộc chắn sóng và cát tạo một đường xanh thật nên thơ ven biển. Đây là điều kiện lý tưởng để khai thác du lịch sinh thái. Và dường như, đã đến lúc Quảng Xương nhận ra lợi thế quý hiếm của mình, chiến lược xây dựng và khai thác du lịch sinh thái đang được những trái tim nhiệt huyết biến thành hiện thực. Nhìn thấy một vài chiếc thuyền của bà con neo đậu, tôi hỏi chàng trai trẻ đi cùng đồng thời là người hướng dẫn đoàn, phó phòng văn hóa huyện:
- Ngoài phát triển du lịch sinh thái ở đại phương, bà con vẫn làm kinh tế từ biển phải không đồng chí?
Chàng trai với nét mặt đăm chiêu, giọng ấm từ tốn trả lời:
- Bà con vẫn sống bằng nghề biển nhưng nghề biển sẽ giúp làm du lịch, sẽ là hai nghề trong một.
Nghe chàng trai trẻ bộc bạch tôi thầm nghĩ rồi đây sẽ không phải là hai nghề mà là ba thậm chí bốn, năm nghề trong một. Biển là một kho báu vô giá, một nguồn lợi to lớn và đa diện nếu chúng ta biết tận dụng và khai thác hợp lý, có hiệu quả. Dường như đoán được những tâm tư của tôi, Phó phòng văn hóa huyện cho đoàn biết rất nhiều thông tin thú vị và vui mừng:
- Để chuẩn bị cho những dạng thức du lịch cao cấp ấy, Quảng Xương đang chuẩn bị tiềm lực vành đai: gạo sạch, rau sạch, thực phẩm sạch, như vậy mới đủ cung ứng và hấp dẫn du khách. Hai xã Quảng Lưu, Quảng Yên hiện đã vào chuỗi cung ứng rau an toàn cho nhà hàng, siêu thị; Các xã Quảng Chính, Quảng Trung, Quảng Khê được quy hoạch nuôi tôm trên cát; Quảng Nham tiếp tục phát huy lợi thế làng nghề biển truyền thống, xây dựng thương hiệu nước mắm Cự Nham, nuôi ngao thương phẩm... Tất cả đã ở trên bệ phóng, một Quảng Xương biến khó khăn thành thế mạnh, biến không thể thành có thể đang trở nên thực sự mạnh mẽ trong xu thế mà nghị lực và sáng tạo mới quyết định thành bại.
Điểm dừng chân cuối cùng của chúng tôi là nhà truyền thống của huyện, nhưng tôi gọi vui là nhà bảo tàng, bởi quy mô và tính chất đúng là nhà bảo tàng, một bảo tàng văn hóa và lịch sử. Có lẽ trên 27 huyện, thị và thành phố của xứ Thanh này chỉ duy nhất có một bảo tàng cấp huyện. Những hiện vật quý hiếm trên đất Quảng Xương đã được chính nhân dân Quảng Xương góp nhặt, cung tiến về đây. Riêng chiếc trống đồng nghìn tuổi có thể sánh ngang với hiện vật của viện Viễn Đông Bác cổ. Dám nghĩ và dám xây dựng một công trình như thế này đủ thấy sự tâm huyết và đoàn kết giữa lãnh đạo và nhân dân nơi đây thế nào.
Một chuyến đi cho chúng tôi nhiều ngẫm ngợi. Hai địa chỉ chúng tôi đến: Một nơi vừa gia nhập hệ thống đô thị cấp thành phố, hướng đến sẽ là “đô thị văn minh”, lại là văn minh du lịch. Khó biết mấy và cũng hãnh diện biết mấy khi nơi ấy trở thành “Đô thị du lịch văn minh”. Một nơi - huyện thuần nông đã hoàn thành mục tiêu “huyện nông thôn mới” nghĩa là đặt chân vào ngưỡng cửa “hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông thôn”. Thanh Hóa đang chuyển mình mạnh mẽ. Tin vui cuối năm nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn đã chính thức đi vào vận hành thương mại và sẽ cung ứng 40% lượng xăng dầu trong nước. Vùng đất của 990 năm Danh xưng cho thấy sức mạnh bền vững của một vùng đất cổ, vùng đất đang khởi sắc như những tin vui cho mùa xuân đang trải rộng khắp đất trời.
Tháng 12-2018
H.D.T