Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /     /   Một vùng non nước xứ Thanh (Bút Ký) - Bùi Lâm Bằng
Một vùng non nước xứ Thanh (Bút Ký) - Bùi Lâm Bằng

Một vùng non nước đẹp như tranh”, câu ví von ở đâu đó, thật đúng với Bá Thước. Ba mươi chín năm trước, khoác ba lô đi bộ lên phía Hồi Xuân, đến chặng làng Cha, nhìn xuống dòng sông Mã uốn lượn dưới chân dãy núi hùng vĩ, cao ngất, tôi đứng lại hồi lâu, ngắm mãi không biết chán. Dòng sông ở đây đoạn thì gầm gào, khúc lại bình lặng, lặng lẽ về xuôi. Thi thoảng có những khuôn bè trôi theo dòng nước. Sau đó, cứ mỗi lần đi qua, tôi lại dừng chân. Lúc bấy giờ, tôi tự nhủ, sau này nếu có máy ảnh tôi nhất định phải trở lại đây. Nhiều chục năm sau, một lần ngồi với các họa sỹ Phan Bảo, Lê Xuân Quảng, Lê Cậy, tình cờ không hẹn mà gặp, cả ba họa sỹ đều trầm trồ, xuýt xoa với cảnh trí sơn thủy hữu tình ở nơi tôi đã dừng chân năm xưa, đỉnh dốc làng Cha của huyện Bá Thước. Hóa ra, cảnh đẹp dù ở đâu thì cũng khó thoát khỏi con mắt của người nghệ sỹ.
Hồi ấy, đơn vị tôi đóng quân ở Trạm Lào, làng Kế, một trong những cái nôi của sử thi “Đẻ đất đẻ nước” nổi tiếng. Và những năm sau này, tôi cũng đã nhiều lần lên với Bá Thước. Nhưng quả là lần nào đến đây, cũng thấy một Bá Thước mới mẻ, một Bá Thước khơi gợi, muốn khám phá.
Nhà thơ Lê Huy Hoàng, bạn thơ của tôi, người con của Bá Thước, nói với chúng tôi khi mới đặt chân đến Cành Nàng:
- Đến Bá Thước là phải đến Pù Luông. Chưa đến Pù Luông coi như chưa đến Bá Thước.
Pù Luông, cái tên nghe lạ, nghe quen. 
Khi xưa, lúc đóng quân ở đây, tôi đã nghe đến cái tên này. Nhưng lúc bấy giờ, không mấy ai để ý đến. Phần vì còn quá nhiều việc phải quan tâm. Phần vì đường xá lúc bấy giờ ở miền núi vô cùng khó khăn. Lại đang trong lúc chiến tranh trên biên giới phía Bắc diễn ra ác liệt. Mọi người chỉ biết đến Pù Luông là một vùng rừng núi xa xôi, cao ngất, chon von đâu đó lưng trời.
Đầu giờ chiều một buổi đầu hạ, chiếc xe Nissan bốn chỗ ngồi của lái xe Nguyễn Bá Lộc đưa chúng tôi rời thị trấn Cành Nàng đi về phía Pù Luông. Len lỏi dưới những tán cây rậm rạp, những cung đường khúc khuỷu, những cua tay áo, bên thì dốc đứng ngút trời, bên thì vực sâu thăm thẳm, chỉ độ hai mươi phút sau chúng tôi đã có mặt ở bản Nông Công, xã Thành Sơn, một bản người Thái cách thị trấn huyện lỵ hơn mười lăm cây số, vùng lõi của khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông. Thế đấy, chỉ độ hai mươi phút chúng tôi đã có mặt ở một nơi mà trước kia được coi là xa lơ xa lắc. Nơi mà hồi đó, chúng tôi phải đi cả nửa ngày đường.
Cảnh đẹp quá. 
Nói một câu cụt lủn như thế, đối với người viết chúng tôi thì được coi là lười nhác, vì chẳng chuyển đến người đọc cái gì. Nhưng quả thật thiên nhiên ở đây thơ mộng quá, hùng vĩ quá, khơi gợi quá, không thể tìm được từ để diễn đạt nữa rồi. Vừa bước xuống xe, mấy người bạn đồng hành, cô nào cô nấy đều rút điện thoại ra, tạo dáng, bấm nhoay nhoáy. Cứ làm như không chụp nhanh thì cảnh đẹp lẩn mất.
Những mái nhà sàn truyền thống thấp thoáng trong bìa rừng, dưới tán cây cao vút. Những máng nước, những máng khua luống, bậc cầu thang, vài khóm giáy dại bung hoa đỏ chót... Một cái gì đó như đã quen thuộc từ lâu. Lâu lắm rồi, tôi mới được gặp lại mái nhà sàn của làng bản. Ngôi nhà sàn mái lá là một đặc trưng của miền núi xứ Thanh, một điểm xuyết của vùng cao, là nét văn hóa đặc sắc của đồng bào thượng du, có mặt trong đời sống cư dân từ cả chục vạn năm trước, giờ đã hiếm lắm rồi. Ngôi nhà của người nông dân Việt là một di chỉ văn hóa, một không gian văn hóa. Ngôi nhà sàn của đồng bào thượng du lại càng rõ nét hơn, thậm chí phong phú hơn. Thường, trong mỗi căn nhà sàn của người vùng cao có tới ba bốn thế hệ chung sống, truyền tới bốn năm đời. Những câu chuyện, những tlêu, mo, xường, những lời ru, điệu hát, câu ví, câu ca dao, phong dao... Rồi những truyền thuyết, tập quán, lệ tục... đều từ đó mà ra. Đều tiềm ẩn dưới mái lá nhà sàn...
Nhưng, nhà sàn truyền thống giờ đã vắng đi khá nhiều. Vắng cả về hiện vật lẫn tinh thần tiềm ẩn trong hiện vật. Có còn mấy đâu những Chươởng paải, những Raán tlu, những Cạy maạng(*) gõ nhịp khua luống... Âu đó cũng là cái giá của sự phát triển thiếu tính quy luật.
Theo sự giới thiệu của anh Lê Huy Hoàng, chúng tôi được biết rõ hơn về một Pù Luông say đắm lòng người. Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông có diện tích tới gần 18 nghìn mẫu Anh, nằm trên hai huyện Quan Hóa và Bá Thước, cách tỉnh lỵ Thanh Hóa 130 cây số. Nơi đây có hệ thống rừng nguyên sinh phong phú, nhiều hang động, thác nước, sông suối... nguyên sơ. Đặc biệt là phong tục, tập quán sinh hoạt của người Thái, cư dân chính của vùng này, vẫn còn rất phong phú và đặc sắc, chưa bị pha tạp và chưa bị “xuôi hóa” bao nhiêu. Đó là điều đáng quý, tôi thầm nghĩ vậy.
Xe chúng tôi dừng lại ở bản Pả Ban, xã Thành Sơn. Mọi người lại tranh thủ chụp ảnh. Quả là nếu không kịp thời ghi lại thì sẽ tiếc. Tôi phóng tầm mắt ra xa. Một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp. Núi non trùng điệp, hùng vĩ. Trời chiều nắng nhạt nên mây vờn lưng núi. Ngọn núi cao xa mờ cùng với dải núi thấp xanh đậm, uốn lượn cùng dải mây trắng. Dưới thung lũng là cánh đồng Na Tấm với những lớp ruộng bậc thang lượn sóng... sinh động vô cùng. Tạo hóa và nhân tạo cùng phối hợp tạo nên bản tổng phổ mầu sắc, khiến chúng tôi ngắm không biết chán. Tôi chớp vội mấy kiểu ảnh trong khi đoàn giục ra xe.
Nhà thơ Lê Huy Hoàng trở thành hướng dẫn viên du lịch cho cả đoàn, một hướng dẫn viên thông thái và thú vị, vì anh gắn bó với mảnh đất này đã ngót năm mươi năm. 
Loang loáng bên cửa xe, thi thoảng có một vài nếp nhà sàn đã được hiện đại hóa, cột được đúc bê tông, mái lợp tôn đỏ au, đó là những nhà của các gia đình khá giả, đã bắt đầu “xuôi hóa”. 
- Có cách gì để giữ được nếp nhà sàn truyền thống không anh - Tôi hỏi anh Hoàng.
- Cũng đang cố gắng, có dự án hẳn hoi đấy - Anh Hoàng trả lời.
Làm gì để giữ được mái nhà sàn, với cột gỗ, sàn bương, mái kè... không nhỉ. Đúng là khó thật. Quy luật của cuộc sống mà. Nếu chỉ kêu gọi chung chung thì chả ăn thua gì, vì mưu sinh là tất yếu hơn cả.
*
Bản Đôn xã Thành Lâm như một vệt mây mỏng, len lỏi dưới cây rừng. Đây là một bản người Thái, và cũng là trong số ít bản của Bá Thước còn giữ được nếp nhà sàn với cửa voóng thơ mộng, với máng khua luống, mó nước róc rách và chiều chiều đàn trâu về bản mang theo tiếng mõ lốc cốc. Trong bóng nắng trải dài của chiều vùng cao, một vài lưng gùi xuống núi thấp thoáng váy áo thổ cẩm sặc sỡ, một điểm xuyết riêng của vùng cao, mà giờ đây không còn nhiều. Tôi đứng ngắm khá lâu, và tốn khá nhiều pin chụp ảnh cho thung lũng Na Ngon có những cánh ruộng bậc thang lượn sóng và những vệt mây mỏng, những ngọn núi mờ mờ nhiều sắc độ khác nhau, phía xa xa là đỉnh Pha Phứng hùng vĩ quanh năm mây phủ và con suối Tếch róc rách ngày đêm.
Bản Đôn là một trong các điểm du lịch cộng đồng của Bá Thước. Được tỉnh quan tâm bảo tồn các giá trị vật thể và phi vật thể của cộng đồng người Thái bản địa. Đó là việc làm rất cần thiết, và cần được đầu tư, coi sóc đúng mức. Tuy nhiên, Bản Đôn cũng như Pà Ban, Nông Công... đang đứng trước thách thức rất lớn, một khi đã trở thành điểm du lịch thì sự mai một, pha trộn, lai tạp... sẽ là điều khó tránh khỏi. Và dù không muốn thì cũng phải thừa nhận rằng lợi nhuận kinh tế sẽ là một nguy cơ, một thách thức đối với bản sắc văn hóa được tích tụ cả chục vạn năm. Một cái giá mà rất nhiều vùng quê khác đã phải trả rất đắt cho sự phát triển ồ ạt thuần lợi nhuận. Sở dĩ tôi lo lắng điều này, là vì hiện nay, một số nhà làm du lịch đã đến, đã khoanh vùng, đã khai thác và cũng đã xuất hiện tín hiệu của “hiện đại hóa” (Tôi tạm dùng từ, vì chưa tìm được từ thích hợp để diễn đạt). Đương nhiên, đã đầu tư, đã làm du lịch thì phải tính đến lợi nhuận. Đó là điều không thể bàn cãi. Hiện đại và Truyền thống, Dịch vụ và Bảo tồn, Văn hóa và Lợi nhuận... là những bài toán cực khó, đang được đặt ra cho không chỉ Bá Thước.
*
Một lần, có lẽ vào khoảng vào tháng bảy năm 1980, tôi và Long, người bạn lính biên phòng, tính vượt sông Mã để sang Ban Công. Con sông rộng mênh mông, dòng nước chảy xiết. Sông Mã đoạn qua Thiết Kế nước chảy xiết nổi tiếng. Dân đi bè không phải ai cũng đưa được bè qua khúc sông này. Bè xuôi, mỗi khi qua đây đều phải nhờ người bản địa lái mới vượt qua được ghềnh ở đoạn sông này. Chưa nhờ được người bản địa. Cánh sơn tràng cứ phải neo bè ở phía thượng nguồn chờ đợi.
Tôi và Long đi dọc bờ sông để xem có thuyền ai sang sông mà đi nhờ. Đi mãi thì thấy có một chiếc thuyền độc mộc neo bên bờ. Không thấy chủ, chúng tôi bạo dạn xuống thuyền, tự chèo. Không quen chèo thuyền độc mộc. Loay hoay một lúc, chèo ngang rồi chèo dọc, hết tiến rồi lui giữa dòng nước xiết của sông Mã, chúng tôi cũng sang được bờ bên kia. Lên được bờ, chúng tôi neo thuyền lại. Quá nửa chiều, chúng tôi quay lại, thuyền vẫn còn ở đó. May, nếu thuyền trôi mất thì chỉ còn cách cuốc bộ qua phà La Hán về Cành Nàng rồi mới về Thiết Kế được. Nếu đi như thế thì nửa đêm mới về đơn vị được chứ chả chơi. (Và khi về tới bờ bên này, chúng tôi vẫn không thấy chủ thuyền ở đâu).
Ôi, Ban Công cơ man nào là cau, những hàng cau chi chít, cao vút, đứng thẳng hàng tăm tắp. Chúng tôi đang đoán già, đoán non xem người dân làm sao mà hái được cau, thì chợt thấy một người đàn ông trung niên, ở trần, lưng đeo đao nắp. Ông đến một gốc cau, phủ nước bọt vào hai lòng bàn tay, xoa xoa rồi nhảy tót lên cây. Ông choài nhoay nhoáy, chớp mắt ông đã lên tới ngọn cau. Trẩy xong buồng cau ông tụt xuống rồi sang cây khác. Loáng cái, cả chục buồng cau đã xếp gọn gàng dưới gốc.
Vượt qua suối Khăm, tôi và Long vào một ngôi nhà sàn, trên nhà đang có người, chúng tôi đánh tiếng bước lên. Bên voóng banh(**) có đặt khung dệt thổ cẩm. Trên khung dệt, những sợi chỉ đủ màu xanh đỏ, những tấm thổ cẩm sặc sỡ... Cô gái đang dệt vải bẽn lẽn đứng dậy chào khách. Tôi ra hiệu cho em ngồi xuống tiếp tục dệt. Em dệt thoăn thoắt. Ngón tay búp măng đưa thoi nhịp nhàng, những sợi chỉ xanh đỏ chạy đi chạy lại trong tiếng kéo go, tiếng đạp chân và con quạ mổ đều đều. 
Thấy tôi mải bên khung dệt, Long vội kéo tay: “Thôi, đi nào, không lại muộn đấy”. Mãi nhiều năm sau, tôi vẫn không quên được hình ảnh rất đẹp ấy ở một trưa Ban Công.
Những cảnh vật ấy, hình ảnh ấy, giờ đã khác đi nhiều, nhưng may thay, vẫn còn... Có lẽ đó là vốn quý của Bá Thước chăng.
Vùng đất của “Cây chu đá, lá chu đồng...” này cũng là nơi sản sinh ra trường ca “Khăm Panh” của người Thái (ở Mường Khoòng) và sử thi “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường Ai, Mường ống, mà dấu tích còn lưu lại ở đồi Chu xã Thiết ống. Đồi Chu chính là nơi một thời chúng tôi tập lăn, lê, bò, toài và bắn súng đạn thật... khi còn ở đơn vị biên phòng. Lần ấy, tôi bắn súng Aka bài một, Ba viên chỉ được 27 điểm, được cho là khá. Hóa ra, thao trường của chúng tôi một thời lại chính là nơi sản sinh ra bộ sử thi nổi tiếng của người Mường.
Nhắc đến sử thi Đẻ đất đẻ nước, tôi vẫn không quên được cái cảm giác khi kiễng chân, nghển cổ ở Hiệu sách nhân dân huyện để nhìn cái bìa sách to tướng, màu nâu đất, có in dòng chữ lạ Teẻ taẩt teẻ raạc. ấy là gần năm mươi năm trước, sử thi Đẻ đất đẻ nước (Teẻ taẩt teẻ raạc) của người Mường, lần đầu tiên được các nhà nghiên cứu Vương Anh, Hoàng Anh Nhân sưu tầm, văn bản hóa và được Ty Văn hóa Thanh Hóa xuất bản. Cái bìa sách có in hai dòng chữ song ngữ Việt Mường Teẻ taẩt teẻ raạc, được bày trên giá sách của Hiệu sách nhân dân huyện, mà tôi chỉ nghển cổ nhìn chứ không có tiền mua. Lúc bấy giờ tôi đâu đã biết đấy là cuốn sách quý, tài liệu quý của văn hóa Mường.
Trường ca Khăm Panh và sử thi Đẻ đất đẻ nước là những tuyệt phẩm văn học dân gian, có một số phận hết sức may mắn là còn hiện hữu trong đời sống văn hóa của người Thái, người Mường Thanh Hóa. Trong khi nhiều di sản văn hóa khác đang bị mai một và thất truyền. Đồi Lai Li, Lai Láng, nơi phát tích sự tích “Cây chu đá, lá chu đồng; Bông thau quả thiếc”, rồi tình sử Nàng ờm - chàng Bông Hương, những áng dân ca Xường Mường ống, Mường Ai... là những di sản văn hóa đặc sắc và vô cùng quý báu, không chỉ riêng của người Mường, người Thái Bá Thước, mà là của chung của nhân loại. Thiết tưởng, cần có chính sách bảo tồn và phát huy hữu hiệu trước khi nó bị mai một.
Một nét đặc sắc nữa của vùng cao châu Tân Hóa xưa, là đây cũng là quê hương của nhiều lễ hội dân gian, như lễ hội Pồn pôông, lễ hội Mường Khô, các điệu xường gốc của người Mường.
Cứ đến ngày mùng mười tháng Giêng hàng năm, người dân làng Muỗng Do (xã Điền Trung) lại tổ chức lễ hội Mường Khô. Lễ hội tưởng nhớ công đức của Quận công Hà Công Thái và các ông Hà Văn Mao, Hà Triều Nguyệt. Quận công Hà Công Thái là người đã có công tiễu phỉ vùng biên giới phía tây giữa thế kỷ 19. Còn các ông Hà Văn Mao, Hà Triều Nguyệt từng tham gia phong trào Cần Vương yêu nước cuối thế kỷ 19. Lễ hội diễn ra với nhiều hoạt động, như: Dâng hương tưởng nhớ công lao của Quận công Hà Công Thái và các danh tướng họ Hà, rước kiệu, hòa tấu cồng chiêng, biểu diễn võ thuật cổ truyền và các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, các trò chơi, trò diễn dân gian. Lễ hội đã được đông đảo nhân dân quanh vùng và du khách thập phương tới dự.
*
Tôi rất tâm đắc với những điều mà anh Trương Văn Lịch, Bí thư Huyện ủy đã trao đổi với chúng tôi, rằng Bá Thước có tiềm năng về du lịch nên cần đầu tư phát triển du lịch. 
Bá Thước quả là có tiềm năng về du lịch rất dồi dào. Nhưng chỉ dồi dào thì chưa đủ. Cần phải có đầu tư. Phải mời gọi các nhà đầu tư. Đặc biệt là các nhà đầu tư có tầm nhìn xa, có tấm lòng với quê hương, với văn hóa dân tộc, để có thể giải được bài toán Văn hóa và Lợi nhuận như đã nói ở trên. Trải thảm đỏ, nhưng cũng nên biết từ chối những trọc phú coi lợi nhuận là trên hết, chỉ toan giành được lợi ích kinh tế bằng mọi giá và bất chấp... Làm giàu là khó, cực khó. Những bảo tồn, phát huy những giá trị của văn hóa được hun đúc cả vạn năm, còn khó hơn nhiều.
Để mời gọi được các nhà đầu tư cần phải có chính sách hấp dẫn. Văn kiện đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII cũng xác định: “Tập trung đầu tư và nâng cấp cơ sở hạ tầng các điểm du lịch hiện có trên địa bàn; xây dựng du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng ở khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông (...) Kêu gọi doanh nghiệp đầu tư du lịch trên địa bàn. Quản lý bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể, các di tích đã được xếp hạng cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học để phát triển du lịch. Để Bá Thước trở thành điểm đến du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng của tỉnh, phấn đấu lượng khách hàng năm đạt trên 10.000 lượt người trở lên, trong đó chủ yếu là khách quốc tế”.
Và, trong chiến lược quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Thanh Hóa, Bá Thước được coi là địa bàn tiềm năng nhiều lợi thế đầu tư cho du lịch sinh thái cộng đồng. 
Anh Trương Văn Lịch cũng cho tôi biết, Bá Thước coi du lịch là mũi nhọn trong phát triển kinh tế. Huyện đã giành nhiều ưu đãi cho đầu tư, song song với việc phát huy tiềm năng sẵn có, như khôi phục các làng nghề truyền thống, đặc sản ẩm thực, các lễ hội và các sinh hoạt văn hóa tâm linh khác.
Tôi thầm nghĩ, triển khai được chủ trương này, Bá Thước sẽ thu hút được rất nhiều du khách, nhất là khách nước ngoài. Vì, người ta vượt cả nghìn cây số đến đây không phải để ở nhà cao tầng với bốn bức tường bê tông, ngủ phòng điều hòa, uống rượu tây, ăn pho mát... Đương nhiên là thế.
Chỉ riêng ở Pù Luông, khu bảo tồn thiên nhiên quý giá, nổi tiếng này, du khách đến đây ngoài thưởng ngoạn cảnh quan, cũng sẽ được thưởng thức những món ăn dân dã mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và hương vị của núi rừng, gợi cho ta cảm nhận khó quên, như gà đồi, ốc đá, măng chua, măng đắng, canh đắng, cơm lam, hoa chuối rừng nộm, vịt Cổ Lũng nổi tiếng, lợn rừng, rượu ngô, rượu cần...
Bá Thước có nhiều làng nghề truyền thống, như nghề dệt thổ cẩm ở xã Lũng Niêm, nghề thêu ren ở xã Cổ Lũng, đan lát ái Thượng, Điền Hạ, Cổ Lũng, đan cót ở Điền Trung, Lương Nội, Điền Hạ; nghề ủ rượu cần ở Điền Hạ, Ban Công, Cổ Lũng, v.v... Rượu cần ở Điền Hạ, Ban Công có hương thơm đặc trưng, vị ngọt, đậm. Uống rượu cần Bá Thước dễ quên đường về.
Nằm trong quần thể các hang động dọc sông Mã, Bá Thước có nhiều địa chỉ được các nhà khảo cổ học khai quật và có số liệu chứng minh là địa chỉ cư trú của người Việt Cổ như: Mái đá Điều, Mái đá Nước, hang Anh Rồ làng Khiêng xã Hạ Trung; hang Làng Tráng I, II, III, IV xã Lâm Xa; hang làng Cốc xã Thiết ống; hang làng Chuông xã Văn Nho. Trong đó di chỉ Mái đá Điều đã được xếp hạng Di tích khảo cổ học từ năm 2004.
Chị Võ Thị Nga, Phó Chánh Văn phòng Huyện ủy Bá Thước đưa cho tôi tập tài liệu. Tôi lướt nhanh và gạch nhớ dòng một đoạn: “Phát triển loại hình du lịch cộng đồng tại huyện Bá Thước đến năm 2025, tầm nhìn 2030; lập quy hoạch phân khu du lịch thác Hiêu, xã Cổ Lũng và Thác Muốn, xã Điền Quang tỷ lệ 1/2000. Tập trung đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng các điểm du lịch, đặc biệt là tại các thôn điểm về du lịch cộng đồng như: Bản Hiêu - xã Cổ Lũng, bản Kho Mường - xã Thành Sơn và bản Đôn - xã Thành Lâm, các công trình đã và đang thực hiện như: Đường giao thông từ Lũng Niêm đi thác Hiêu; đường giao thông thôn Kho Mường, xã Thành Sơn; đường giao thông nối tiếp từ làng Khuyn, xã Cổ Lũng đi xã Tự Do, Lạc Sơn, Hòa Bình; các công trình nhà vệ sinh công cộng đạt chuẩn phục vụ khách du lịch... 
Khôi phục các loại hình văn hóa bản địa, các sản phẩm đặc trưng, trùng tu tôn tạo di tích lịch sử, di tích khảo cổ, lễ hội hàng năm tại các điểm di tích: đền thờ Hà Công Thái, Mái Đá Điều (Hạ Trung), đền Giổi xã ái Thượng”.
Đây rồi. Cẩm nang phát triển của Bá Thước đây rồi. Có cẩm nang này. Bá Thước nhất định sẽ trở thành huyện giàu và đẹp ở miền Tây xứ Thanh. Tôi hy vọng điều đó sẽ đến với Bá Thước, đến với quê hương của sử thi Đẻ đất đẻ nước, của trường ca Khăm Panh, của truyền thuyết Nàng ờm - chàng Bông Hương... quê hương của “Cây chu đá, lá chu đồng; Bông thau quả thiếc”...
        

Thành Sơn, 4-2019
                 B.L.B


(*) Chươởng paải: Khung dệt thổ cẩm.
Raán tlu: Chuồng trâu.
Cạy maạng: Máng gõ nhạc khua luống.
(**) Voóng banh: Gian ngoài cùng bên trái nhà sàn.


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 83
 Hôm nay: 5227
 Tổng số truy cập: 13455787
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa