Người “gánh hai vai” dọc dài biên giới (Bút ký) - Quỳnh Thơm
Những ngày giữa tháng 4, chúng tôi khởi hành chuyến đi từ thành phố Thanh Hóa lên xã Bát Mọt, huyện Thường Xuân. Qua những chặng đường ngoằn ngoèo, uốn lượn, điểm dừng chân của chúng tôi là đồn Biên phòng Bát Mọt. Giữa mây trời bao phủ, sương muối giăng kín tứ bề, đồn Biên phòng hiện ra mờ ảo “ở lưng chừng dốc” như trong câu hát tôi từng nghe. Mọi người trong đoàn ai cũng thốt lên: “Sa Pa của Thanh Hóa đây rồi”. Trong cái mờ ảo, huyền diệu ấy, những bóng áo xanh của những chàng lính Biên phòng dần hiện rõ. Trung tá Thịnh Văn Kiên, Chính trị viên đồn Biên phòng Bát Mọt cùng các cán bộ, chiến sĩ niềm nở đón tiếp chúng tôi bằng những cái bắt tay thắm thiết.
Giữ đúng lời hẹn sẽ cùng nhau trải nghiệm cái Tết té nước tại Lào, sau vài phút nghỉ ngơi, thăm hỏi vội vàng, chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình hơn 70 ki lô mét đường rừng để sang huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, Lào. Thật ngạc nhiên khi đặt chân đến cửa khẩu Thà Láu, trời như vỡ nắng, không còn cái ẩm ướt, se lạnh, mù mờ của Bát Mọt nữa. Tôi cảm nhận được sự nghèo đói hằn lên những nóc nhà sàn ẩn hiện dưới núi rừng của bạn. Dù đang là thời gian tết Lào, nhưng vọng vào không gian chỉ là sự tĩnh lặng, yên bình đến lạ. Đại úy Vi Minh Hạnh, Đội trưởng Vũ trang đồn Biên phòng Bát Mọt, là phiên dịch cho biết: Dù hai huyện Thường Xuân và Sầm Tớ đều là huyện vùng biên, nhưng sự khó khăn và vất vả của bên bạn còn gấp bội phần. Càng đi sâu vào đất Lào, cái nắng nóng càng gắt gao hơn. Trong xe đã bật điều hòa hết công suất, nhưng trên mặt ai cũng rìm rịm mồ hôi.
Sự thân thiện, hiếu khách của những người bạn Lào nơi mảnh đất tình nghĩa khiến chúng tôi thêm ấm lòng. Chúng tôi được thưởng thức ẩm thực Lào với những món ăn dân dã truyền thống. Đặc biệt, mọi người được hòa vào phong tục Tết té nước, một trong những lễ hội truyền thống của Lào, mang ý nghĩa đem lại sự mát mẻ, phồn vinh cho vạn vật, thanh khiết hóa cuộc sống của con người. Vào những ngày tết Bun-Pi-Mày này, mọi người thường té nước vào nhau để chúc phúc, cầu mong mưa thuận gió hòa, cầu cho một năm mới ấm no, hạnh phúc. Cả đoàn đều bị té nước ướt sũng sượt nhưng ai cũng cảm thấy vui vẻ và thú vị. Chiều tối, tạm biệt các bạn Lào về bên kia biên giới mà ai nấy luyến lưu, bịn rịn. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng chúng tôi đã được sống trong tình hữu nghị Việt - Lào thắm thiết.
*
Buổi sáng miền biên cương thật yên bình. Mưa giăng giăng kín lối, sương muối bao phủ đất trời, khó mà quan sát bao quát hết cảnh vật. Mọi thứ cứ nhờ nhợ, huyền ảo, không nhận ra đâu là núi cao, đâu là vực thẳm. Thời tiết thật khắc nghiệt! Thế mới thấm thía những khó khăn, vất vả của các chiến sĩ Biên phòng và người dân nơi đây. Từng cơn gió lướt qua mang hơi ẩm ướt, lạnh lẽo thấm vào da thịt khiến tôi khẽ rùng mình. Tiếng kẻng đơn vị vang lên trong không gian lãng đãng. Sau bữa ăn sáng ấm lòng, thấy tôi có vẻ nôn nóng muốn vào việc chính, Chính trị viên Thịnh Văn Kiên khẽ mỉm cười: “Hãy còn sớm mà nhà báo. Chúng ta đi dạo thăm thú một vòng quanh đồn trước đã”. Rồi anh vui vẻ dẫn chúng tôi đến thăm khu tăng gia của đồn. Tôi hứng thú nhất với khu nuôi cá tầm. Theo Chính trị viên, thời tiết ở Bát Mọt rất thích hợp cho việc nuôi loại cá tầm có nguồn gốc từ xứ lạnh. Đây là giống cá mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện đồn đang nuôi một nghìn con và sẽ cho thu hoạch vào cuối năm. Tôi hy vọng việc nuôi cá tầm sẽ được đầu tư, nhân rộng cho dân bản, để giúp người dân có cơ hội thoát nghèo.
Rồi các chiến sĩ Biên phòng đưa chúng tôi cuốc bộ đến thăm bản Khẹo. Con đường từ đồn xuống bản nhầy nhụa bùn đất bởi nhiều ngày ở đây đã “quá mù ra mưa”. Đã 10 giờ sáng mà không gian vẫn đặc quánh hơi sương. Trung tá Trịnh Ngọc Khoa, cán bộ đội Vận động quần chúng luôn giọng hài hước như để cho chúng tôi quên đi cái cảm giác đang “trượt băng” trên bùn đất: “Đây là xứ sở sương mù đấy”, “các nhà báo đi Sa Pa ngay ở Thanh Hóa nhé”... Chúng tôi thong dong tận hưởng vẻ đẹp thơ mộng nơi núi rừng. Xa xa, những nếp nhà sàn hiện trong không gian bàng bạc, đàn trâu bò thung thăng gặm cỏ bên sườn đồi. Rồi những đứa trẻ thơ hồn nhiên nô đùa, cười nói như xua tan sự trầm lắng, tĩnh mịch của buổi sớm biên giới hoang sơ. Những người dân bản hiền lành, chất phác nở nụ cười niềm nở chào đón chúng tôi. Qua mỗi nhà, Chính trị viên không quên dừng lại trò truyện, hỏi han, kết hợp hướng dẫn bà con kỹ thuật chăm sóc ngô và các cây hoa màu sao cho đạt năng suất cao. Những việc làm nhỏ nhất của người lính áo xanh ở mọi lúc, mọi nơi như tô đậm thêm hình ảnh anh “Bộ đội cụ Hồ” trong lòng dân, thắt chặt tình quân dân “như cá với nước”.
Khi biết ý định của tôi tìm hiểu và viết về một tấm gương sáng trong công tác Đảng, Chính trị viên vừa nói vừa chỉ tay về phía xa xa: “Vậy ta vào nhà bác Lang Đình Thuyên - Bí thư kiêm trưởng bản Khẹo”. Trưởng bản với dáng người hao gầy, nét mặt nghiêm nghị nhưng chào đón đoàn trong cái bắt tay nồng ấm và nụ cười đôn hậu. Khi ông đon đả rót nước mời từng người, tôi tranh thủ “ngắm nghía” kĩ vẻ bề ngoài “người cầm trịch” bản Khẹo.
ở tuổi gần sáu mươi nhưng trông ông Thuyên vẫn khỏe khoắn và nhanh nhẹn. Sinh ra dưới nếp nhà sàn của người Thái, gia cảnh nghèo khó, bố mắc bệnh nặng, Lang Đình Thuyên thấu hiểu hơn ai hết những gian khổ, thiếu thốn của đồng bào mình. Thời bấy giờ, chàng trai trẻ của bản nung nấu một ý chí, một quyết tâm phấn đấu rèn luyện, học hỏi, nâng cao hiểu biết để giúp bà con dân bản thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Năm 1977, Lang Đình Thuyên được lãnh đạo địa phương tin tưởng giao giữ chức Bí thư Chi đoàn Thanh niên bản Khẹo. Trưởng thành từ cái nôi công tác Đoàn, Lang Đình Thuyên để lại dấu ấn sâu đậm là một chàng trai trẻ nhanh nhẹn, xông xáo trong mọi phong trào. Đây cũng chính là bước đệm để chàng trai trẻ tiến xa hơn trong sự nghiệp. Từ 1978-1998, Lang Đình Thuyên lần lượt giữ các chức vụ quan trọng của thôn bản như: Phó Chủ nhiệm kiêm Đội trưởng đội sản xuất, Chủ nhiệm kiêm Đội trưởng đội sản xuất, Công an viên, Công an viên kiêm trưởng bản, Trưởng bản, Kế toán trưởng. Từ năm 1999 đến nay, Lang Đình Thuyên liên tục làm Bí thư chi bộ hoặc Trưởng bản. Đến tháng 6-2017, thực hiện chủ trương nhất thể hóa chức danh, ông được giao trọng trách “hai trong một”: Bí thư kiêm trưởng bản Khẹo. Tôi nhẩm tính, ông đã có hành trình hơn 40 năm nắm giữ các chức vụ chủ chốt của thôn bản. ở cương vị công tác nào, Lang Đình Thuyên cũng vượt qua mọi khó khăn và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ để đạt nhiều thành tích tiêu biểu như: Kỷ niệm chương Vì chủ quyền an ninh biên giới của Bộ Tư lệnh Biên phòng (các năm 1992, năm 2002); Bằng khen của BCH Biên phòng tỉnh Thanh Hóa “Vì chủ quyền an ninh biên giới” năm 1996; Giấy khen của UBND tỉnh Thanh Hóa vì “Đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện Đề án tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ nhân dân biên giới, hải đảo giai đoạn 2013-2016”; Giấy khen vì đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện “Ngày Biên phòng toàn dân” của huyện Thường Xuân giai đoạn 2009-2019; Giấy khen của UBND huyện Thường Xuân về hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (5 năm liên tiếp trở lại đây)...
Nhìn nét suy tư trũng sâu trong đôi mắt người Bí thư kiêm trưởng bản, tôi hỏi:
- Trải qua chặng đường hơn nửa đời người làm lãnh đạo bản Khẹo, đã bao giờ ông cảm thấy mệt và muốn nghỉ ngơi chưa ạ?
Trưởng bản nhấp ngụm nước, đưa mắt về phía cửa sổ, rồi quay lại nhìn tôi, giọng trầm xuống: Nói thật, nhiều lúc nghĩ bản thân mình tuổi cao, sức yếu, tôi cũng đã nhiều lần có ý định xin nghỉ để dành thời gian chăm sóc cho gia đình. Nhưng thấy dân còn cần mình, mình lại càng phải cố gắng.
Vào những năm 90 của thế kỷ trước, ít ai có thể tưởng tượng nổi cái đói nghèo ở chốn thâm cung cùng cốc này. Không riêng gì bản Khẹo mà cả xã Bát Mọt phải sống nhờ vào nguồn trợ cấp của Chính phủ. Mỗi năm không tính hết được bao nhiêu chuyến hàng chở gạo cứu đói cho đồng bào nhưng đói vẫn hoàn đói. Đời sống người dân chủ yếu tự cung tự cấp, thiếu thốn trăm bề. Thời đó, người Thái ở đây khổ lắm. Đàn ông chỉ biết uống rượu, hút thuốc. Đàn bà thì nai lưng như con trâu, con bò trên các nương rẫy. Trẻ con trong bản cái ăn còn không có thì làm gì được học hành, suốt ngày lặn lội, mò mẫm dưới suối, trong rừng để tìm kiếm con cá, củ mài, đọt măng, rồi săn con thú. Cuộc sống của đồng bào cứ lay lắt qua ngày, đoạn tháng...
Bí thư kiêm trưởng bản cho biết thêm, bản Khẹo là một bản biên giới giáp với nước bạn Lào. ở đây 100% là người dân tộc Thái. Bản có 58 hộ dân với 249 nhân khẩu. Do đặc điểm địa lý, thời tiết nơi vùng biên này vô cùng khắc nghiệt. Mùa khô thì lạnh giá, sương mù, sương muối dày đặc; mùa mưa thường xảy ra lũ ống, lũ quét gây sạt lở đất. Bà con chỉ trồng được một vụ lúa duy nhất, còn lại hơn 7 tháng trong năm là để đất hoang. Được mùa còn có lúa ăn, mất mùa quanh năm ăn măng, ăn sắn. Những tháng giáp hạt cả làng đói, tháng gần Tết thì sống dựa vào việc khai thác lâm sản phụ trong rừng làm thức ăn. Vì vậy mà bản Khẹo từ lâu đã được gọi là bản “ngủ dưới sương mù”.
Cái đói, cái nghèo truyền kiếp của đồng bào, của quê hương khiến gương mặt của người Bí thư kiêm trưởng bản lúc nào cũng trầm ngâm, tư lự. Để thay đổi bản nghèo, Bí thư kiêm trưởng bản đã phải nhiều đêm thao thức, trăn trở tìm ra hướng đi mới. ở một bản biên giới xa xôi, hẻo lánh này, người dân rất khó tiếp cận với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó, trình độ dân trí ở đây rất thấp, đa số người dân vẫn còn nặng tư tưởng trông chờ, ỉ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, động lực vươn lên thoát nghèo chưa cao. Vì vậy, bản thân Bí thư kiêm trưởng bản Lang Đình Thuyên xác định vấn đề mấu chốt đặt ra phải là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững, đem ánh sáng của Đảng soi rọi bản làng, đưa nghị quyết vào cuộc sống bằng những việc làm cụ thể, giúp đồng bào tin tưởng, làm theo.
Bí thư Lang Đình Thuyên đã trở thành cánh tay nối dài của Đảng, thắp sáng niềm tin về Đảng cho bà con dân tộc miền núi xa xôi, hẻo lánh này. Là đảng viên “nằm trong dân”, lại luôn trách nhiệm, nhiệt huyết, ông Thuyên đã phát huy tối đa năng lực, vai trò lãnh đạo của mình ở trên mọi lĩnh vực, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng. Dù trong sinh hoạt hay trong cuộc sống, ông luôn tuyên truyền cho các đảng viên trong chi bộ đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của già làng, trưởng bản, người có uy tín trong đồng bào các dân tộc; tích cực xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt, Bí thư Lang Đình Thuyên hết sức chú trọng đến công tác phát triển Đảng, ươm mầm những hạt giống đỏ ở vùng biên. Ông chính là người tìm kiếm, phát hiện ra những quần chúng ưu tú và bồi dưỡng, kết nạp Đảng. Những cái tên như Lương Văn Trung, Lang Văn Tuyên... dưới sự dìu dắt của Bí thư Lang Đình Thuyên giờ đã trở thành những đảng viên tiêu biểu của chi bộ bản Khẹo. Hiện chi bộ bản Khẹo có 10 đảng viên (trong đó đảng viên trẻ nhất sinh năm 1987, đảng viên cao tuổi nhất sinh năm 1953). Hằng năm chi bộ phấn đấu kết nạp thêm 1 đến 2 đảng viên; 5 năm liên tục chi bộ bản Khẹo đạt chi bộ trong sạch, vững mạnh.
Chia sẻ với chúng tôi, Trung tá Thịnh Văn Kiên khẳng khái: “Bác Thuyên là một người có tính Đảng, tính chiến đấu rất cao. Bác đã muốn làm việc gì là quyết tâm làm cho đến cùng. Vì thế, bác có uy tín rất lớn trong dân bản. Bà con ai cũng tin yêu, quý trọng”. Hơn 40 năm làm cán bộ chủ chốt, gần 30 năm đảm nhận chức trưởng bản, bí thư chi bộ, đủ để thấy bà con dân bản, tin tưởng và tín nhiệm ông thế nào. Sự nhiệt huyết, tận tâm của người Bí thư kiêm trưởng bản toát lên qua ánh mắt đau đáu và cử chỉ, lời nói ân cần. Ông Thuyên luôn tâm niệm: “Mình là Đảng viên, là người lãnh đạo thì trước hết phải nói đi đôi với làm để bà con thấy được điều mình làm là đúng, là tốt thì họ mới học tập và làm theo”. Đúng vậy, bà con dân bản ở đây đã quá quen với tiếng bước chân, giọng nói của Bí thư kiêm trưởng bản. Bất kể thời tiết nắng hay mưa, địa hình đi lại khó khăn, hiểm trở, ngày qua ngày, tháng qua tháng, đôi chân ông Thuyên không biết đã đi hết bao đồi núi, dãy nương, con suối, lặn lội đến từng hộ dân để tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, nhằm nâng cao nhận thức cho bà con, tránh bị các phần tử xấu lôi kéo kích động. Đối với ông, mọi việc đích thân người cán bộ phải thực hành trước cho dân thấy và làm theo, rồi khi dân làm còn phải tiếp tục “cầm tay chỉ việc”.
Tôi gợi cho ông về những kỷ niệm đáng nhớ trong công việc “vác tù và hàng tổng” của mình. Như chạm đúng tâm tư, tình cảm, người Bí thư bùi ngùi, xúc động chia sẻ về những tháng ngày gian khó, đồng cam cộng khổ với bà con dân bản. Những kỷ niệm khảm sâu trong trái tim người cán bộ bản làng giờ lại trỗi dậy, nhoi nhói. Ông bồi hồi nhớ lại cơn lũ quét lịch sử vào tháng 10-2017. Nước từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ xuống, quét sạch tất cả những thứ nó tràn qua... Trước thiên nhiên hung dữ, có thể gây sạt lở nhà cửa, ông đã phối hợp với các đoàn thể và bộ đội Biên phòng tuyên truyền, vận động bà con di dời đến nơi an toàn để bảo toàn tính mạng và của cải. Khi đó, nhà anh Vi Văn Thông ở gần con suối, có nguy cơ bị lũ cuốn rất cao, ông đã cố gắng vận động, thuyết phục cả 5 người trong gia đình anh tức tốc di dời đến tạm trú tại nhà mình. Rồi cơn lũ quét cuốn đi của dân bản rất nhiều trâu bò và ruộng đất, nhưng gia đình anh Thông may mắn chỉ bị sạt lở. Từ đó gia đình anh Thông đã coi ông Thuyên như ân nhân của mình. Là người đứng đầu bản, ông không khỏi xót thương trước những mất mát, nỗi đau mà đồng bào mình, quê hương mình phải gánh chịu. Bà con dân bản lâu nay vốn nghèo khó giờ lại thêm vất vả, nhọc nhằn. Nén nỗi đau vào sâu bên trong, Bí thư Lang Đình Thuyên cố gắng sốc lại tinh thần. Ông phải làm điểm tựa tinh thần cho bà con dân bản vượt qua cơn hoạn nạn. Cũng may nhờ có sự ủng hộ, giúp đỡ của các đoàn từ thiện và lãnh đạo địa phương nên đời sống bà con cũng dần ổn định trở lại.
Trò truyện với ông Thuyên tôi càng cảm nhận được sự dày dặn kinh nghiệm công tác và xử lý công việc một cách hết sức nhanh nhẹn. Nhấp ngụm nước trà thanh mát, tôi hướng ánh mắt về phía Đại úy Cao Văn Hải - Đội trưởng đội Vận động quần chúng đồn Biên phòng Bát Mọt đang say sưa lắng nghe cuộc trò truyện của chúng tôi.
- Là những người lính thực hiện “3 bám, 4 cùng” với dân bản, có lẽ những người cán bộ đóng “hai vai” như ông Lang Đình Thuyên, sẽ là một nhân tố khá quan trọng trong việc liên lết với dân bản để thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó cho các anh đúng không ạ?
Đôi mắt người lính áo xanh sáng lên, giọng rắn rỏi:
- Phải nói đúng hơn là không có những người như bác Thuyên giúp sức thì nhiệm vụ của chúng tôi sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. ở một xã biên giới, bác Thuyên không những đóng vai trò quan trọng tại địa phương mà còn là người có nhiều đóng góp trong việc giữ vững mối đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân hai bên biên giới Việt - Lào; động viên, nhắc nhở quần chúng nhân dân thường xuyên kiểm tra và bảo vệ cột mốc 353.
Để giúp bản Khẹo khá lên, chính quyền địa phương cùng với đồn Biên phòng Bát Mọt đã kêu gọi các tổ chức, cộng đồng hỗ trợ, giúp đỡ bà con thoát nghèo. Giữa năm 2018, biết được quyết tâm của đồn Biên phòng sẽ giúp dân bản Khẹo chuyển đổi từ sản xuất một vụ lúa sang sản xuất thêm vụ Đông, các vị phật tử chùa Long Nhương đã tin tưởng, ủng hộ người dân bản Khẹo từ dụng cụ sản xuất, hạt giống ngô, rau, phân bón. Sau khi nhận được sự hỗ trợ, đồn Biên phòng Bát Mọt đã xây dựng kế hoạch, thành lập “Tổ hỗ trợ nông dân”, đến từng nhà dân vận động, xuống đồng trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật giúp nhân dân canh tác, thâm canh tăng vụ, trồng đa dạng hóa các sản phẩm nông nghiệp như ngô, rau, bí, khoai các loại. Cán bộ Biên phòng và đoàn từ thiện còn treo giải nhà nào làm năng suất cao sẽ được thưởng nồi cơm điện nên bà con phấn khởi lắm. Nhà nhà đua nhau gieo giống, trồng cây, chăm sóc. Sau 4 tháng, những hạt ngô, những hạt giống rau được gieo xuống đã ban đầu cho thành quả. Trên cánh đồng 7 ha hàng năm chỉ toàn cỏ dại, đất cằn cỗi, giờ nhờ có bàn tay lao động của con người đã có màu xanh tươi tốt, trù phú với 4 ha ngô và hơn 1 ha rau, khoai các loại. Chỉ sau một vụ đầu tiên trồng thử nghiệm, các hộ đã có rau ăn, thu hoạch ngô để chăn nuôi. Nhiều gia đình còn có rau gửi xuống xuôi để bán. Những hộ có điều kiện hơn còn mạnh dạn vay mượn tiền từ ngân hàng đầu tư, mở rộng diện tích gieo trồng, mua sắm nông cụ cho những mùa vụ sau.
ở cái xứ sở sương mù, hệ thống thủy lợi chỉ đáp ứng được 1/3 diện tích đất nông nghiệp nên bà con dân bản chỉ trồng một vụ lúa trong năm, nay niềm hi vọng đã được thắp lên. Lần đầu tiên bà con ở bản Khẹo biết trồng ngô, rau củ vụ đông. Việc này chẳng có gì xa lạ, mới mẻ nhưng đối với đồng bào Thái ở vùng biên giới xa xôi, hẻo lánh này thì đúng là một “bước ngoặt”, mà người cầm lái dẫn đường không ai khác chính là Bí thư kiêm trưởng bản Lang Đình Thuyên.
Chia tay bản Khẹo và những người “lính quân hàm xanh” vùng biên ải về phố, mọi người bịn rịn, luyến lưu. Những nếp nhà sàn mờ ảo, vài nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt khắc khổ của bà con dân bản... khuất dần sau cửa kính xe khiến lòng tôi nao nao cảm xúc lạ: Vui cười đó nhưng vẫn còn lo. Mong rằng nhờ vào sự kiên trì, nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương, nhất là những đóng góp không mệt mỏi của Bí thư kiêm trưởng bản Lang Đình Thuyên, bà con bản Khẹo sẽ không “nghèo bền vững” nữa.
Q.T