Người làm giàu, làm mới cây mía, hạt đường - Lê Ngọc Minh
Tôi đã nhiều lần đến với vùng đất mía đường Lam Sơn, mỗi lần đến là mỗi lần thêm một ngạc nhiên được thấy những nét mới mang tính bước ngoặt và thêm lòng ngưỡng phục một con người không bao giờ hao cạn sự trăn trở lo toan cho cây mía ở vùng đất bán sơn địa rộng lớn của miền tây xứ Thanh. Con người đáng kính đó là Anh hùng lao động Lê Văn Tam, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Tổng công ty Mía đường Lam Sơn.
Lần đầu là vào mùa hè năm 1991, đoàn phim của chúng tôi về Thanh Hóa làm bộ phim ở nơi đẻ đất, đẻ nước. Đây là phim sử thi khái quát lịch sử xứ Thanh từ văn minh Núi Đọ - Đông Sơn cho đến thời nay. Ngay từ lúc lên chương trình công tác, ông Bí thư Tỉnh ủy Lê Huy Ngọ, ông Chủ tịch tỉnh Mai Xuân Minh đã gợi ý, nên dành dung lượng phim xứng đáng cho vùng mía đường Lam Sơn. Theo hai ông, ở đó đang thực sự có một chuyển động rất lớn và rất mới liên quan đến cuộc sống đổi đời của hàng chục vạn con người.
Trên đường đến công ty Mía đường Lam Sơn, thấy mía vụ mới đã mọc xanh như niễng, trải rộng trập trùng trông ngút cả tầm mắt, các nghệ sỹ dừng lại săn bắt nghệ thuật chừng hơn hai tiếng đồng hồ, nên khi đoàn đến công ty thì đã mười giờ. Ông giám đốc Lê Văn Tam đi xuống vùng mía từ sáng sớm. Mọi người quay ra trách tổ quay quá mải mê săn bắt nghệ thuật nên nhỡ việc. Đạo diễn cười, nói vui kiểu cơm chưa ăn thì gạo vẫn còn và yêu cầu đoàn đi quay cảnh di tích Lam Kinh cách đó gần ba cây số. Trên xe, người dẫn đường do tỉnh bố trí bỗng nói ra một câu khiến mọi người giật mình hoài nghi: “Các nghệ sỹ thần tượng ông Tam, đúng thôi nhưng cũng nên biết ông ấy là một người đốt tiền có hạng!”. Tôi vội hỏi người dẫn đường: “Ông Tam đốt tiền thế nào?”. Người này bĩu môi, nói tiếp: “Vừa rồi ông ta có một chuyến đi úc rất hoành tráng nghe đâu tiêu tốn đến mười ngàn đô, tương đương với hơn năm mươi cây vàng đấy!”. Mọi người chỉ nghe và không bình luận gì. Người dẫn đường thấy không được hưởng ứng bèn thôi nhưng ông ta vẫn kết thúc bằng câu khẳng định: “Làm ăn kiểu đốt tiền như thế không chóng thì chày cũng sẽ toi đặc!”.
Tối hôm đó khi đã muộn, đoàn làm phim mới trở lại nhà máy đường Lam Sơn. Mất điện lưới. Ông Tam cho chạy máy nổ đón tiếp các nghệ sỹ điện ảnh. Chúng tôi nói câu xã giao, xin cho được chịu cảnh mất điện cùng với giám đốc để hiểu thêm cái nực nội của vùng bán sơn địa vào đêm nắng nóng này. Ông Tam cứ một mực đề nghị cho được đón nghệ sỹ một cách trọng thị và ông còn muốn có giáo cụ trực quan để phục vụ khách nữa. Máy nổ chạy. Điện bừng sáng. Trước mắt chúng tôi là một người ngoài năm mươi tuổi, vóc dáng vừa phải, tóc bạc trắng, giọng nói nhỏ nhẹ thủ thỉ và khoé miệng luôn có nét cười tươi. Ông cho chiếu cái băng video, cảnh người úc trồng mía, cảnh làm ra đường từ cây mía. Cuốn video được dựng theo dạng quảng cáo nhưng tính nghệ thuật khá cao, các ngón nghề phim ảnh khúc triết, gợi cảm đến thần tình.
Bên chai rượu quê nút lá chuối và đĩa lạc luộc, vẫn bằng cái giọng thủ thỉ ông Tam kể về chuyến đi úc vừa rồi. Ông đã đến nhà máy đường, đã xem người nông dân trang trại của nước úc chọn giống, làm đất, chăm sóc cây mía như thế nào. Ông cũng đã vào dự thính buổi thảo luận chính sách đối với cây mía của hạ nghị viện úc. Cuối cùng thì ông hiểu được các tác nhân quan trọng để người úc có thể làm ra năm triệu tấn đường đạt chuẩn quốc tế trong một niên vụ, ông cũng đã nạp được một số kiến thúc về cách làm mía kiểu mới, ôm được mấy chục quyển sách dạy cách trồng mía và cái băng video mà chúng tôi vừa được xem.
Nhà quay phim Phạm Ngọc Lan đột ngột hỏi: “Anh đi nước úc xa xôi vậy, chắc tốn kém lắm?”. Ông Tam khẳng định: “Rất tốn kém. Riêng tiền vé và tá túc đi lại đã mất đứt năm ngàn đô”. Mọi người đều “ồi” lên một tiếng. Năm ngàn đô hồi năm 1991 là to lắm. Nghe đâu một chiếc Dream mua ở Thái Lan chỉ có khoảng ba trăm đô, ở úc còn rẻ hơn. Năm ngàn đô tương đương với mười sáu, mười bảy chiếc Dream. Ông Tam kể, tuy có tốn kém nhưng vẫn phải đi để tầm sư học đạo, để tìm ra cách làm ăn mới...
Như muốn trải chút tâm tình hồi cố, ông Tam cho biết, năm 1988, rời vị trí phó giám đốc kiêm trưởng ban Mía của sở Nông nghiệp Thanh Hóa lên Lam Sơn nhận chức Giám đốc nhà máy, ông Tam đã xác định số phận mình sẽ gắn bó hết đời với cây mía ở vùng bán sơn địa này rồi. Nhưng khi đến nơi thấy nhà máy chỉ chạy được 10% công suất vì không có mía nguyên liệu. Đường làm ra chỉ đạt độ mầu hoa mơ, khó lưu thông vào thị trường. Người trồng mía hai sương một nắng làm được cây mía, chồng kéo vợ đẩy đến nhà máy thì phải xếp hàng; mía được mua, cũng chỉ có cái biên lai ghi lại số lượng và số tiền nhưng nhà máy chịu nợ, bao giờ bán được đường hoa mơ sẽ trả. Giải quyết vấn đề nghịch lý này mọi việc phải được bắt đầu từ nguyên liệu.
Ông Tam đã lặn lội đến các nhà máy đường trong Nam ngoài Bắc. Phần lớn họ cũng đang gặp tình cảnh như ông. Có những nơi được gọi là khởi sắc thì vẫn luôn đói nguyên liệu và ít đạt tiêu chuẩn chính phẩm, nói như ngôn ngữ của giới mía đường là trữ đường không cao.
Qua những chuyến đi nội địa, ông Tam thấy rõ ở những nơi ông đến không nơi nào có được bài giải nhằm thoát được cái họa nguyên liệu chập chờn bất định này. Ông nhớ, tại hội thảo khoa học quốc tế về mía chưa lâu, bài thuyết trình của một chuyên gia mía đường người úc có băng phim chiếu minh họa khá được chú ý. Ông thấy, đồng đất của người ta cũng giống mình sao mà cây mía ở đó tốt thế, sao mà người làm mía sướng thế? Nông dân cưỡi xe máy phân khối cao đi làm. Nông dân ngồi máy cày làm đất, nông dân ngồi ô tô đi rải ngọn mía khi trồng; nước tưới cho loại cây háo nước này được dẫn đến từng thửa mía bằng hệ thống tưới tự động... Vậy là ông Tam đi úc bằng tiền do bộ Nông nghiệp hỗ trợ một phần, bằng tiền tiết kiệm của hai vợ chồng dành dụm sau gần ba mươi năm làm việc và cả bằng tiền vay mượn bạn bè chứ nhà máy lúc đó đang nợ như chúa Chổm lấy đâu ra tiền? Số tiền tiêu tốn cho chuyến đi chủ yếu là vé máy bay, thuê phương tiện đi lại ở úc, còn khoản ẩm thực thì bà vợ đã chuẩn bị cho một bịch to hơn ba cân gạo lức rang vàng, nửa cân thịt nạc rang muối đậm, một gói mè đen, hai cân rau dưa phơi khô, đảm bảo đủ vitamin, đạm và chất xơ cho một chuyến xuất ngoại dài ngày.
Ông Tam thủ thỉ kết luận, tốn kém nhưng biết thêm được nhiều điều lắm và cái biết cốt tử là quyền lợi của người làm nguyên liệu. Ông nói rồi mời chúng tôi đi nghỉ để bốn giờ sáng hôm sau dậy sớm, đi quay một cảnh xa nhà máy mà ông bảo, chắc chắn các nhà làm phim sẽ ưng ý. Người dẫn đường hỏi ông đã báo cho cơ sở đó chưa. Ông đáp, nông dân thường ra đồng từ khi trời còn chưa mửng sáng.
Sáng hôm sau, đi tám cây số bằng xe và cuốc bộ hơn một cây số nữa, chúng tôi gặp một gia đình đông người đang làm cỏ mía ở một ngọn đồi rộng thênh. Chủ nhà phi ngựa từ trên đỉnh đồi xuống vừa kính cẩn, vừa hồ hởi chào đón ông Tam và đoàn phim. Ông Tam giới thiệu đó là anh Cao Thanh Mao, người đã nhận thầu trồng mía ở ngọn đồi ba sáu ha này. Năm ngoái, anh Mao có vụ mía bội thu đầu tiên, mua được xe máy Dream, mua được ngựa để thồ mía đến bán cho nhà máy. Ông Tam nói thêm, anh Mao đang phấn đấu sau vụ mía năm nay sẽ mua ô tô tải. Anh Mao nghe thế khẳng định: “Sẽ mua được thôi. Em đã tính toán kín nhẽ ngon lành rồi!”.
Anh Mao được mời trả lời phỏng vấn. Mở đầu, anh nói: “Dạ thưa, trước hết là nhờ ơn bác Linh (tức đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh), sau nữa là nhờ ơn bác Tam (ông Lê Văn Tam), gia đình tôi...”
Đạo diễn nhắc không cần phải mào đầu như thế, cứ phát biểu thẳng vào ý nghĩ của mình là được. Song khi nói lại, anh Mao vẫn mở đầu bằng cụm từ trước hết... Quay lại đúp khác, anh vẫn cứ lỡ lời như thế. Để anh khỏi mất tự nhiên, đạo diễn tiếp tục cho phỏng vấn và chắc rồi ông sẽ khắc phục cắt lời trước hết... khi dựng vào phim.
Quay xong cảnh làm mía và phỏng vấn, chúng tôi được anh Mao mời về thăm nhà ở gần đập Bái Thượng. Nhà anh quá giầu so với mức sống hồi đó. Trong nhà kê bốn cái giường thành vách chạm trổ rất oai oách; ngoài sân là chú ngựa ô trông cao to như ngựa Xích Thố của Quan Vũ thời Tam Quốc cứ luôn gõ móng đuổi muỗi và một chiếc xe máy Dream mới cứng. Nghe có đoàn phim về, bà con trong thôn kéo đến rất đông. Ông Tam được bà con gặp gỡ quấn quýt thân tình. Họ hỏi ông Tam về giá mía vụ tới, về nguồn phân bón nhà máy sắp hỗ trợ thì bao giờ có?... Đạo diễn cho phỏng vấn một cụ ngoài sáu mươi tuổi, bởi cụ có gương mặt rất điện ảnh và giọng nói khá truyền cảm. Mở đầu phát biểu cụ khai giọng bằng câu như anh Mao đã phát biểu ngoài đồi mía: “Dạ thưa, trước hết là cảm ơn...”.
Trong bữa cơm liên hoan, anh Mao kể, anh đã có mười năm chạy mánh trong Nam ngoài Bắc, trên người có vài chục vết thương bị đâm chém hằn thù nhưng tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Ba năm nay anh về quê trồng mía cho bác Tam, anh đang đổi đời... Kết thúc câu chuyện, anh lại nhắc lại câu ân huệ mở đầu bằng trước hết... và đi đến chỗ ông Tam, hai tay nâng chén rượu quê cạn với bác Tam.
Do khuôn khổ của bộ phim, chúng tôi chỉ ghi hình một ngày vùng mía đường Lam Sơn. Khi đoàn phim chia tay để đến địa điểm quay khác, đạo diễn Hải Ninh ôm vai ông Tam, thân mật nói: “Anh là Nguyễn Công Trứ của vùng này rồi! Dân đã thờ sống anh rồi đấy!”. Ông Lê Văn Tam cười hiền lành: “Đã làm được gì đâu, anh!”.
*
Bộ phim tài liệu ở nơi đẻ đất đẻ nước được hoàn thành đúng thời gian và được Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh và truyền hình Thanh Hóa gây được chút tiếng vang.
Riêng tôi thì vẫn cảm thấy chưa thỏa đáng ở đoạn về vùng mía đường Lam Sơn. Câu nói mở đầu bằng Trước hết... của anh Mao và bà cụ hôm chúng tôi ghé thăm vẫn cứ đeo đẳng tôi bằng nhân vật bác Tam.
Đến năm 1998, tiến sỹ Lưu Trọng Hồng, lúc đó là cục trưởng cục Điện ảnh về Thanh dự hội trường Colege Đào Duy Từ. Lúc trở ra Hà Nội, ông tia mấy nhà biên kịch cử đi Thanh Hóa viết về vùng mía đường Lam Sơn trong chương trình tài trợ sáng tác cho cuộc thi kịch bản phim truyện năm 2000. Nhờ vậy mà tôi được trở lại vùng mía đường Lam Sơn gặp bác Tam. Nhóm có ba người, gồm tôi, nhà văn Đoàn Trúc Quỳnh, nhà biên kịch Bành Mai Phương.
*
Nhà máy đường Lam Sơn lúc đầu vốn có công suất thiết kế là 1500 tấn mía/ngày do Pháp tài trợ xây dựng nhưng vì nhiều nguyên nhân, người Pháp đã bỏ cuộc từ năm 1984. Cấp trên định cho chuyển cái xác nhà máy dang dở ấy đến một tỉnh vùng mía khác. Lãnh đạo tỉnh đôn đáo chạy ra trung ương xin mãi mới giữ lại được. Lúc ông Tam lên nhận chức giám đốc, ông phải ra Hà Nội tìm mua từng cân dây đồng để mang về cho các kỹ sư ta hoàn thiện nhà máy. Đến lúc có nhà máy rồi thì không có mía. Cả vùng nguyên liệu chỉ đủ cho nhà máy ép đường mười bảy ngày trong năm.
Sau khi đi úc về, ông Tam lại lặn lội vào tận miền Trung mua được bốn xe ô tô ngọn mía giống mới nhưng khi phát cho dân trồng thì bà con vì gặp nạn thiếu đói ngày giáp tết Nguyên Đán năm 1989 nên họ... giã làm mật ăn tết hết. Ban giám đốc và các phòng ban của nhà máy hoảng lên. Ông Tam trấn an đồng nghiệp, bằng câu khẳng định: “Dân ăn là mình ăn. Không gây khó dễ cho dân nữa mà phải tìm cách khắc phục”.
Bốn xe ngọn mía giống mới khác lại được mua về, lần này thì chúng được giao tận tay đến từng hộ, sau khi ngọn mía đã được tẩm thuốc trừ sâu và nước vôi phòng dịch. Dân biết tấm lòng bác Tam nên có người sụt sùi rơi nước mắt xúc động, họ nói rằng, họ có lỗi lắm, dù số ngọn mía mới này không tẩm nước vôi thì họ cũng không dám động đến.
Giống mới vào, năng suất sản lượng tăng lên vượt bậc. Cái nhà máy lâu nay chỉ chạy được khoảng 12% công suất, nay phải làm việc cật lực để đạt công suất tối đa liền tỏ ra mệt mỏi ọc ạch và có lúc lịm đi cả tuần để tiểu tu, trung tu và đại tu. Người dân trồng mía hôm nào không thấy ống khói nhả khói là buồn như mất của. Mía là thứ hàng hoa, quá ngày giờ thu hoạch sẽ trổ bông, trổ cờ, đường mật bốc hơi trở nên nhạt thếch; mà dù có thu hoạch đúng hạn nhưng đắp lại đó không được ép thành đường thì sẽ ủng thối, giọt mật hạt đường sẽ thâm sỉn và bốc mùi chua loét. Giữ lời hứa với dân, sẽ mua hết số mía dân trồng, ông Tam lặn lội đến các nhà máy bạn, thay dân bán mía. Bán chịu thôi nhưng rồi sau đó ông đi vay tiền ngân hàng trả cho dân để giữ chữ tín. Chia sẻ với ông Tam, ông tổng giám đốc ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam Phạm Văn Thực đã xuất vốn cho vay. Ông Thực đã nhiều năm làm phó chủ tịch tỉnh Hà Nam Ninh, phụ trách khối nông nghiệp nên ông rất hiểu việc xây dựng một ngành công nghiệp trong nông nghiệp ở một tỉnh còn lạc hậu thuần nông khó khăn đến mức nào. Chơi với ông Tam và hiểu đồng đất con người vùng mía Lam Sơn, ông Thực đã tự nguyện làm thành viên sáng lập của Hiệp hội Mía đường Lam Sơn sau đó ít lâu.
Cây mía Lam Sơn lên đời kéo cuộc tái sinh của bốn nông trường quốc doanh cột trụ thời bao cấp của tỉnh Thanh Hóa. Cây mía đã làm thay đổi bao số phận theo hướng ấm no, dư dật, trong đó có người một thời kiếm ăn giang hồ như anh Cao Thanh Mao, có người hiền lành cục mịch cả đời chưa ra khỏi làng bản như người nông dân thiểu số ở làng Nguyệt ấn xa xôi hẻo lánh. Cây mía mở mang diện tích để thêm nhà máy thứ hai, công suất ép bốn ngàn tấn mía/ngày ra đời và hàng trăm ki lô mét đường rải nhựa, hàng chục ngôi trường mà nhà máy được mọc lên tại các làng bản trồng mía...
Những ngày đi thực tế ở vùng Mía đường Lam Sơn, chúng tôi chỉ được gặp ông Tam một lần. Việc tiếp đón, đưa đi thực tế có người của nhà máy đảm nhiệm, chỗ nào quan trọng thì đích thân phó tổng giám đốc Lê Văn Thanh tháp tùng. Tôi còn nhớ bữa cơm vô cùng thân mật mà bà con người dân tộc Mường ở xã Xuân Phú mời chúng tôi. Có rất nhiều câu chuyện đầy kịch tính được bà con kể lại với tâm trạng xúc động biết ơn đối với nhà máy và không ai là không nhắc đến ông Tam vài ba lần trong lúc kể chuyện. Tư liệu đã tích góp được hòm hòm rồi, chúng tôi đều thấy khó gói những hiện thực ở đây vào một bộ phim truyện màn ảnh có độ dài trên dưới trăm phút, vì vậy chúng tôi chuyển sang xây dựng đề cương bộ phim truyền hình nhiều tập. Hồi ấy làm phim truyền hình nhiều tập đang ở thời kỳ rón rén thể nghiệm. Dù vậy, chúng tôi cũng mạnh dạn làm đề cương hai mươi tập phim, loại dung lượng 70 phút/tập.
Lúc báo cáo với giám đốc Lê Văn Tam về kết quả đợt đi thực tế và chia tay nhà máy đường, tôi thay mặt nhóm nhắc lại với ông câu nói gần chục năm về trước của đạo diễn Hải Ninh: “Dân đã thờ sống anh rồi đấy!”, ông Tam cười nói: “Chúng tôi đang chuẩn bị để thờ dân đúng với tầm hơn!”. Tôi gạn hỏi, ông Tam thân tình nói: “Sắp tới chúng tôi sẽ cổ phần hóa! Rất khó khăn nhưng cũng phải cổ phần hóa để người trồng mía được làm chủ, làm giầu nhiều hơn”. Chúng tôi nắm tay ông và chúc nhà máy, chúc Công ty Mía đường Lam Sơn thành công trong chương trình cổ phần hóa sắp tới.
*
Bộ kịch bản Cuộc đời và những chuyến đi, hai mươi tập, vừa có nơi nhận sản xuất thì trong một chuyến công tác ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, tôi được một giám đốc đang nổi danh hồi đó cho biết ông Tam cổ phần hóa là làm ăn kiểu xạo và sắp chết rồi. Tôi bàng hoàng lo lắng, định gọi điện thoại cho ông nhưng lại ngại. Nếu đúng là ông Tam đang chết thật thì bộ phim của chúng tôi cũng sẽ toi theo. Vì nội dung bộ phim là những hiện thực của nhà máy, có thể nói một cách to tát là một mô hình liên minh công nông kiểu mới, một gắn kết làm ăn kinh tế rất nhân văn mà chưa có bộ phim nào đề cập cả.
Tôi bỏ dở chuyến công tác, hộc tốc vào Thanh để mong gặp ông Tam. Tôi đi trong lo âu, bí mật, vì không muốn các đồng nghiệp nghe chuyện mà thêm hoang mang.
Vào nhà máy đường, tôi gặp đúng dịp đang diễn ra cổ phần hóa. Đó là ngày hội. Tôi đứng khép mình sau cây cột vuông lớn ở giữa sảnh tòa chính của nhà máy đường nhìn một bác nông dân vừa mua xong số cổ phiếu trị giá ba trăm năm mươi triệu đồng, cao nhất trong số cổ đông từ người trồng mía. Cánh báo chí vây lấy bác phỏng vấn, bác đỏ mặt xúc động và chỉ nói được mấy từ: “Vui lắm chứ, vì được góp nhiều vốn để làm ăn lớn!”. Cuối đợt bán cổ phiếu, tôi nhìn vào bảng thống kê và thật ngạc nhiên trước những con số: 19.449 cổ đông, trong đó có 17.519 cổ đông là người trồng mía, họ đã mua với tổng số tiền là 186,6 tỷ đồng, vượt mức vốn điều lệ quy định ban đầu là hơn 36,6 tỷ đồng.
Tôi lại cũng được chứng kiến cảnh đại hội của 153 đại cổ đông đại biểu cho 19.449 cổ đông. Tôi đặc biệt chú ý đến các ông đại cổ đông từ người nông dân trồng mía. ở họ vẫn còn cái gì đó khép nép e dè của những người nhà quê lần đầu được đăng đàn trong giới hào kiệt đang làm cho vùng mía quê hương mỗi ngày thêm giàu có. Song, trên gương mặt lành hiền chất phác của họ đã rạng niềm tin và sức mạnh. Họ đã bàn bạc và giơ tay biểu quyết xây các nhà máy vệ tinh mới có giá hàng chục triệu USD như nhà máy chế tạo cồn công nghiệp, nhà máy làm phân vi sinh từ bã mía, khu công nghệ cao...
Tôi đến tạm biệt ông Tam khi trong phòng ông có một nhóm thanh niên nam nữ là con em nông dân trồng mía được nhà máy cấp kinh phí cho về thủ đô học kinh tế nông nghiệp và các ngành khác. Ông Tam chìa bàn tay, tất cả nhóm bạn trẻ cùng đặt tay vào thay cho lời hứa hẹn. Góp vui với ông tôi cũng đặt bàn tay mình vào đó để thay cho lời chúc mừng một thời kỳ làm ăn mới của nhà máy.
Bộ phim truyền hình Cuộc đời và những chuyến đi của chúng tôi hoàn thành. Nhân vật chính là Vũ Ba nhưng người xem vẫn nhận ra đó là ông Lê Văn Tam. Một lần anh bạn Hoàng Long đồng hương tỉnh của tôi đi biệt xứ làm ăn bên Nga đã hai mươi năm bất ngờ gọi phone quốc tế về, kể rằng anh rất ngưỡng phục ông Lê Văn Tam. Anh đã thu đủ các tập phim Cuộc đời và những chuyến đi phát trên kênh truyền hình quốc tế của VTV và nhân bản đem xuống vùng Xverlovsk, Sibir xa xôi, vừa biếu vừa kinh doanh phục vụ bà con mình ở đó hơi bị lãi. Anh cứ một hai dặn tôi, khi nào anh về nước, tôi kết nối cho anh được gặp ông Lê Văn Tam, nhân vật Vũ Ba mà anh rất yêu thích.
*
Được phân công của ban tổ chức trại Sáng tác Sầm Sơn 2016 của tuần báo Văn nghệ, mấy nhà văn chúng tôi về thị trấn Lam Sơn gặp lại nguyên mẫu nhân vật của phim Cuộc đời và những chuyến đi. Ông Tam, thật kỳ lạ, ở tuổi tám mươi, vẫn nhanh nhẹn, hồng hào, vẫn nói chuyện truyền cảm mạch lạc về vùng mía đường Lam Sơn, vẫn được đại hội cổ đông vùng công - nông nghiệp Mía đường Lam Sơn tín nhiệm bầu làm chủ tịch Hội đồng quản trị.
Vị chủ tịch Hội đồng quản trị U 80, tiếp chuyện và trao đổi với các nhà văn khá sôi nổi trong hơn hai tiếng đồng hồ. Ông cho biết, sau các thập niên có những tăng trưởng ngoạn mục về vùng nguyên liệu, hiện tại Tổng công ty Mía đường Lam Sơn tập trung vào năm chương trình làm mới cây mía, làm đa dạng vùng mía đường với mục tiêu, đến năm 2025 đạt doanh thu một tỷ USD. Cụ thể: Một, làm mới toàn diện và đồng bộ cây mía - hạt đường Lam Sơn, giảm từ mười tám ngàn ha nguyên liệu như hiện nay xuống mười ba ngàn ha vào năm 2020 nhưng nâng năng suất từ 55 ngàn tấn/ ha lên 100 tấn/ha, đạt sản lượng 1,3 triệu tấn (tăng ba trăm ngàn tấn), mỗi ha mía phải đạt mười ba đến mười bốn tấn đường và giá thành sản xuất dưới 8,500 đồng/kg; Hai, đầu tư xây dựng vùng rau quả chất lượng cao, giá trị lớn với ba ngàn ha cam không hạt, đạt sản lượng hai mươi vạn đến hai lăm vạn tấn vào năm 2025...; Ba, khôi phục và phát triển khoảng ba mươi ngàn đến bốn mươi ngàn ha rừng sản xuất thâm canh với các loại cây có giá trị kinh tế cao như macca, luồng, quế, cao su, gỗ quý; Bốn, hợp tác với nông dân phát triển chăn nuôi lớn theo hướng công nghệ cao gắn với các cơ sở chế biến đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường thủ tín và bền vững; Năm, đầu tư xây dựng khu công nghệ cao, khu nghiên cứu và phát triển (R&D), khu du lịch sinh thái... Ông Tam kể tiếp, ông mới đi khảo sát ở Hàn Quốc, xứ lạnh này có hai mươi ngàn ha rừng tre luồng, mỗi năm họ có thể thu về ba tỷ USD sản phẩm chế tác từ tre luồng. Với vùng nguyên liệu tre luồng hàng trăm ngàn ha của miền tây xứ Thanh và hàng chục ngàn ha đang được trồng mới theo công nghệ tân tiến, một ngành công nghệ chế tác đã hình thành và đã cho ra những mẻ hàng mẫu tiếp thị. Do đang chủ trì một cuộc hội thảo về đề án làm mới cây mía, chủ tịch Hội đồng quản trị Lê Văn Tam cử ông Phạm Văn Chinh, chủ tịch công đoàn, một người am hiểu và thích thú văn học, lịch sử đưa các nhà văn đến thăm khu trồng hoa, trồng cây quả theo công nghệ sinh học. Phó giám đốc Lê Huy Khiêm hướng dẫn chúng tôi xem cách lai tạo giống mía mới, cách chăm sóc các loại phong lan đa sắc, giống cam không hạt, thăm khu vườn đang cho thu hoạch dưa vàng... Vườn nào cũng rộng nhưng chỉ vài ba người quán xuyến bằng các phương tiện công nghệ hiện đại.
Chia tay chủ tịch Hội đồng quản trị Lê Văn Tam, tôi bộc bạch với ông, mỗi lần đến Mía đường Lam Sơn, tôi đều được chứng kiến một cái mới, cái mới lần này đồng bộ, toàn diện có cây mía vóc vạc làm trụ cột. Ông đáp từ bằng cái bắt tay thật thân tình, bằng ánh mắt cương nghị đầy niềm tin và dặn: “Có dịp xin mời các nhà văn về lại để hiểu thêm và động viên những niên vụ làm mới cây mía của bà con vùng mía đường Lam Sơn chúng tôi”.
L.N.M