Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /     /   Vùng quê đang lên
Vùng quê đang lên

Từ xưa, vùng đất Vĩnh Hưng đã ghi sâu vào ký ức bao người. Cái câu “chưa nắng đã hạn chưa mưa đã lụt” luôn gắn trên môi, mấy ai quên được. Phía trên các làng, núi cao sừng sững trùng trùng điệp điệp, bên dưới là những đồng nước lầy lội triền miên. Dân quê quen sống bằng cái nghề cá tép quanh năm. Hàng năm vào tiết tháng bảy đến tháng chín, mưa nhiều, có đợt mưa chưa đến bốn ngày nước đã nổi mênh mông. Đã thế, lượng mưa từ các triền núi Thạch Thành tuôn xuống sông Bưởi, rồi từ đó tràn vào đồng đất Vĩnh Hưng gây lụt úng. Rất ít  năm bà con được gặt hái lúa mùa. Còn vụ chiêm, thường xảy ra hạn hán, hàng loạt lúa mất trắng. Dân nghèo, nhưng đáng quý là qua bao nhiêu cuộc chiến tranh giữ nước, hàng loạt thanh niên vẫn hăng hái lên đường đánh giặc, ngày chiến thắng trở về, lắm người ngực đầy huân chương… Mãi gần đây, con đê Mủi ốc có từ thời Lê bị hỏng nhiều đoạn nay được đắp lại, tầm nhìn ai nấy được mở mang. Ông Lê Ngọc Thắng, Bí thư Đảng ủy xã có lần tâm sự: “Mọi người đừng lo, chẳng bao lâu nữa xã ta sẽ vươn lên. Mơ ước nhà ngói sân gạch đủ cho mọi người sẽ đến, không những thế mà còn mọc thêm nhiều nhà tầng, tầng thấp tầng cao.” Đúng vậy, lời ông cách đây bảy năm nay đã trở thành hiện thực. Bản thân ông, tuy trăm công nghìn việc nhưng vẫn nhận thầu hơn héc ta đất giao rừng. Cứ sáu năm ông thu hoạch một lần, được hơn trăm triệu đồng tiền gỗ tràm. Sau vài đợt như thế ông đã xây được căn nhà ba tầng theo thiết kế mới. Chẳng phải riêng ông, nhiều người khác cũng đua nhau làm nhà, có nhà còn đẹp hơn nhà ông.
Lần này, ông dẫn đoàn nhà báo, nhà văn đến thăm những gia đình làm ăn khá giỏi, tôi chợt nhớ chùm thơ của Xuân Diệu cách đây sáu mốt năm: 
Nước giếng Đừ vừa trong vừa mát
Gái làng Còng hồng đẹp hơn thơ
Dù cho nắng lửa cháy đồng
Cũng không ngăn nổi nụ cười của em…
Đúng vậy, dù đói kém mất mùa nhiều năm nhưng cuộc sống của người Vĩnh Hưng vẫn tiến triển không ngừng - đó là lời nhận xét của nhà thơ Ngô Xuân Tiếu sau khi ông thấy hết các làng, nhà thấp nhà cao san sát, không còn một mái tranh vách nứa, đường làng được đổ bê tông rộng rãi và đẹp.
Đến phân xưởng chế biến gỗ của ông Phùng Ngọc Sinh, ai nấy không khỏi ngạc nhiên, xưa người ta thường gọi là vùng đất “khỉ ho cò gáy” mà nay: kẻ vào người ra nườm nượp, người cưa xẻ gỗ, kẻ khuân vác vật tư… hăng hái và luôn luôn điểm nụ cười tươi sáng trên môi. Ông rất bận việc công xã, cứ hết giờ buổi chiều lại phóng xe đến xưởng gỗ… Riêng bà, không ngờ một người thuần nông từ bé mà nay đã trở thành vị chỉ huy gần ba chục công nhân. Còn số công nhân, họ chẳng được qua trường lớp đào tạo nào nhưng vẫn làm tốt công việc được giao. Họ có lúc nhanh lúc chậm tùy theo việc, miễn sao thành phẩm đưa ra đạt yêu cầu. Thế mới biết chẳng việc gì khó, làm mãi thành quen, chất lượng cứ mỗi ngày thêm đẹp. Đặc biệt bà chủ, được công nhân quý trọng lắm. Chưa bao giờ bà nặng lời với người làm, có lẽ đức tính của bà xuất phát từ nhà nông, đã trải qua bao vất vả đường đời nên thấu hiểu mọi nỗi niềm... “Nếu có đủ điều kiện kinh tế chẳng bao giờ bọn cháu đến đây” - đó là lời của Kim, chuyên bốc vác. Cô còn nói: Bà ấy tốt lắm, quý bọn cháu như con đẻ. Chuyện tháng nào bà cũng trả tiền công sòng phẳng đã đành, nhưng mỗi khi nghe nói chị em bị ốm đau hoặc tai nạn, bà đánh xe đến tận nơi, bao giờ cũng mang theo một gói quà, có lần gửi phong bì, ít nhất một trăm…”
Chưa hết ấn tượng đẹp về phân xưởng chế biến gỗ, chúng tôi lại chứng kiến cảnh làm ăn rầm rộ của nhà ông Hà. Một lúc ông chỉ đạo cả ba việc: máy đào xúc, máy cày, máy cưa cắt gỗ. Người làm công cho ông chẳng mấy ngày được nghỉ, vì nhu cầu đào mương, làm móng nhà, cắt gỗ rừng của bà con cứ mỗi ngày càng tăng. Ông như chong chóng, hết cắt việc cho người làm lại chạy đến hồ cá. Đó là hồ Hón Chè. Hồ này rộng hơn sáu héc ta, bình quân mỗi năm ông thu hoạch gần 10 tấn cá. Đặc biệt cá ở đây rất sạch, không bao giờ phải dùng bột chăn nuôi như người ta, vì các trận mưa rừng từ đồi núi Thạch Thành tuôn xuống bao nhiêu là phù du đều dồn vào vùng cá, nên người mua rất chuộng. Dân chuộng cá Hón Chè vì nó thơm, bùi và béo…
Tôi còn muốn tìm những bí quyết làm ăn của Hà, nhất là tiền đâu để ông mua sắm những cỗ máy và thiết bị trị giá lên tới tiền tỷ, mà bản thân ông chẳng phải đâu xa lạ, chỉ là người con được sinh ra từ vùng đất “khỉ ho cò gáy”… Bỗng ông Thắng giục: “Những gia đình này đã có nguồn gốc đi lên từ lâu rồi, nhưng đáng lưu ý nhất vẫn là trang trại Nguyễn Quyết Tiến, vào đây các anh sẽ thấy nhiều cái hay...”
Chao ơi, đồi thì cao, trang trại lại cũng cao, gió núi lùa vào các cành cây tán lá, tại cổng nhà anh Tiến ta cảm thấy như có tiếng sáo diều đang vi vút đâu đây. Bên trên nữa là những vạt mía dào dạt không một bóng người mà lại có tiếng hát trong như tiếng lá reo. Lời hát hơi ngắt quãng có lẽ cô gái vừa cắt cỏ vừa hát, hoặc gió đưa, gió đẩy:
Thương anh em cũng muốn vô
Cho vơi nỗi nhớ cho tiêu cái buồn
Trách ai sao nỡ hạ buồm
Để thuyền mất lái vật vờ bên sông…
Phía dãy chuồng trại lại vút lên giọng nam cao của người chăn lợn, hay đến nao lòng:
Em buồn em khóc, em cứ khóc
Khóc nữa cho vơi bớt nhọc nhằn
Anh còn đây em mãi tìm đâu
Mà sao thơ thẩn như vừa chiêm bao…
Nhà thơ Ngô Xuân Tiếu nắm tay Lê Văn Sự, hỏi: “Dân ca gì mà xao xuyến thế, Nghệ Tĩnh chẳng phải, quan họ cũng không?”. “Anh chưa nghe hết các làn điệu dân ca Thanh Hóa ư. Đây là làn lối vút lên từ đáy lòng những người dân lao động. Như hò sông Mã, cũng từ mái chèo mái đẩy trên sóng nước. Chính nơi này là mảnh đất gốc tích có từ xưa, chúa Trịnh Doanh đã từng đến đây chỉ huy luyện tập những đàn voi, ngựa chiến…”
Vậy là, có lẽ vì thế mà truyền thông làn điệu diễn ca lưu mãi đến giờ, nhờ đó họ có thể tạo dựng thêm những cái hay cái mới, ý tình đằm thắm hơn!... Mãi khi ông Thắng ngửa mặt nhìn lên bãi mía hỏi một câu: “Hương ơi, mấy giờ chiều chủ trại mới cho nghỉ?”. “Tùy từng hôm - Hương trả lời - Anh Tiến không bắt buộc, nhưng các em thường là năm giờ, có hôm sáu giờ… nếu trời trong sáng như bữa ni”.
Thành ra, người có tiếng hát hay như tiếng lá rừng hoặc tiếng suối reo là Hương. Chẳng biết cô bao nhiêu tuổi nhưng tôi đoán chừng hai lăm đến ba mươi, cái tuổi đang dần dần dạn dày gió sương và mưa nắng. Cô với một bạn gái nữa đang làm công cho Tiến, chuyên dọn cỏ mía và vườn cây ăn quả, mỗi ngày chị Tân vợ Tiến trả công cho họ 120 ngàn đồng/người. Còn số dọn rửa hai chuồng lợn, với một chuồng bò lẫn gà, cả phục vụ thức ăn cho chúng cũng chỉ có hai người. Những việc này khá kỳ công, vất vả, nếu không biết trang bị phòng vệ có thể sẽ bị nhiễm trùng nguy hiểm. Cho nên, kinh nghiệm của họ càng tích cực dọn rửa bao nhiêu càng an toàn bấy nhiêu. Họ được anh Tiến ưu tiên trả tiền công khá cao, theo hợp đồng, mỗi người được lĩnh 50 triệu đồng/năm. Nói chung, muốn biết họ làm việc có nhiệt tình hay không thì cứ nhìn mặt mũi tay chân họ hàng ngày… Thực tế cho thấy người nào cũng thoăn thoắt, mặt mày rạng rỡ, đôi khi đùa những câu thật ý nghĩa như anh chàng nọ đã hát đối với Hương làm cho môi trường thêm sống động.
Đàn bò có hai mươi con dành sinh sản, mỗi ngày người ta dọn một lần, phải chuyển phân đi khá xa, xong lại xả nước rửa thật kỹ. Còn hai chuồng lợn, chuồng số 1 nuôi 400 con nái thuộc giống ngoại, mỗi con nặng gần 2 tạ, chuồng số 2 trước mắt có 200 con dự phòng cho đàn nái, trong đó có 2 đực giống, mỗi con đực nặng 250 kg. Vòng ra phía sau trại có 800 con vịt gốc đang bơi ở hai ao lớn có diện tích hơn 900 m2, chốc một chúng lại vươn cổ lên thật cao vỗ cánh, tiếng quạc quạc làm không khí nhộn lên… Anh Tiến cho biết: “Trông thế đấy, nhưng bình quân các năm gia đình cháu chỉ lãi 500 triệu đồng, đặc biệt năm ngoái được 700… Lúc nãy bác gì bảo vợ chồng cháu nên kiểm tra chẳng cần phải nhúng tay!… Không được, tuy hai người làm công nhiệt tình đấy, nhưng nhiều khi còn sai sót, nên không có cháu buộc Tân phải nhảy vào… Các bác có biết chỉ cần một con bò hay con lợn bị bệnh nhiễm khuẩn là cả đàn bị lây lan chẳng mấy chốc sạch trơn!... Mặt khác, vợ chồng cháu đang còn trẻ, cứ ngồi một chỗ, chốc chốc lại ra kiểm tra. Thấy sai không để yên.
Kết thúc buổi thăm quan, chẳng biết mọi người đang nghĩ gì, riêng tôi có cảm tưởng trang trại này sẽ vững bền và còn có thể vươn xa. Như dự kiến của chủ trại, đầu năm tới sẽ xây thêm chuồng lợn và chuồng bò để tăng con số, không phải mua con giống xa xôi mà từ chính những lợn nái và bò cái của nhà mình sinh sản. Với người làm, buộc anh phải tuyển thêm. Không ngờ một chủ trại trẻ như Tiến đã có đầu óc sớm nhập cuộc trên con đường đổi mới, rất táo bạo nhưng vững chắc!
Đoàn người vừa ra đến cổng, từ bãi mía lại vang lên giọng ca như tiếng lá reo gió thổi:
Người ơi xin giữ lời này
Đừng gieo nắng lửa nhuộm vàng đồi em… 

Tháng 11 năm 2016 - Trọng Nghĩa


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 63
 Hôm nay: 3858
 Tổng số truy cập: 13969588
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa