Nhân chứng tù Phú Quốc - TRẦN QUANG NGHIÊM
Hồi ức
Ngôi nhà ba tầng nằm ở thôn 1 xã Vĩnh Thành khang trang, đẹp mắt, trong khuôn viên hơn năm trăm mét vuông, có vườn rau, bồn hoa cây cảnh được cắt tỉa cẩn thận và khéo léo. Đó là ngôi nhà của ông Trần Quang Nghiêm - người nghệ sỹ điêu khắc tài hoa - người chiến sỹ cách mạng kiên trung trong nhà tù Phú Quốc năm xưa. Cứ mỗi lần đất nước kỷ niệm ngày giải phóng, Bắc Nam xum họp một nhà, hồi ức của những ngày bị giam cầm, tra tấn dã man và những cuộc đấu tranh cam go trong nhà tù đế quốc lại hiện ra.
.jpg)

Bọn cai ngục tra tấn dã man chiến sỹ Cách mạng - ảnh: Lâm Bằng
Sau khóa huấn luyện tân binh, tôi vào học trường sĩ quan pháo binh, ra trường được phong quân hàm thiếu úy, chức vụ trung đội trưởng thuộc C1, D10, E68, F.351. Tôi được đi khóa đào tạo ngắn ngày do cố vấn Liên Xô hướng dẫn sử dụng Kachiusa, loại súng phun lửa cực mạnh thiêu cháy mọi khí tài, sinh lực đối phương. Nhưng khi bắn phải có bệ phóng, giá đỡ chân, nòng pháo rất cồng kềnh. Khó cơ động đánh nhanh rút gọn trong hang ổ địch. Tôi có sáng kiến: Chỉ cần lấy phân tử bắn chính xác, bệ súng đắp đất, đạn, bình điện, dây điện, hầm trú ẩn, không cần nòng pháo và bộ giá chân vẫn bắn trúng mục tiêu. Sáng kiến được áp dụng triệt để trong các trận đánh, đạt hiệu suất cao khiến kẻ địch kinh hoàng.
Đơn vị tôi đứng chân tại vùng chiến thuật Một, thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Tháng 9-1968, trên giao nhiệm vụ tiêu diệt ba cứ điểm địch gồm: Sân bay Nước Mặn, Cẩm Hà - Lai Nghi và cụm pháo bầy Tân Tây Lan. Ba điểm này địch khống chế đường vận chuyển của ta, nên phải tiêu diệt ngay. Không giờ ngày 6-9-1968, ta đột nhập bất ngờ, với hỏa lực mạnh, đặc biệt là Kachiusa lần đầu xuất trận diệt gọn ba cứ điểm trên không một tên địch sống sót. Vũ khí, khí tài của địch cháy thành than, hoặc biến dạng còng queo, khiến kẻ thù hoang mang, lo sợ. Đơn vị tôi được tặng huân chương Chiến công hạng Nhất.
Tết Mậu Thân 1968, trên giao nhiệm vụ tiêu diệt các cứ điểm ở Điện Quang, Điện Bàn, Điện Chính và Hội An, thuộc tỉnh Quảng Nam. Chúng tôi chuẩn bị phương án tác chiến, xây dựng quyết tâm tiêu diệt địch cho cán bộ chiến sĩ hừng hực thế tiến công. Bất ngờ ngày 30 tết Mậu Thân, kết hợp ba thứ quân xuống đường (Quân Giải phóng; bộ đội địa phương; dân quân du kích cùng nhân dân) xuất kích trong thế trận chiến tranh toàn dân, toàn diện - ào ạt tiến công địch. Đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tôi được đi báo cáo điển hình toàn miền. Bốn mươi tám năm trôi qua (1968-2016) nghĩ lại vẫn rưng rưng nước mắt về cuộc Tổng tiến công trong tết Mậu Thân. Đó là bài học vô giá trong chiến tranh vệ quốc, là đòn tiến công chiến lược, “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Tiền đề cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc!
Đi báo cáo điển hình về, tự dưng người thâm tím, mắt mờ, đi không vững… Tôi được đưa đến bệnh viện huyện Điện Bàn, điều trị được năm ngày, ngày thứ sáu, khoảng tám giờ, Hội mẹ chiến sĩ đến thăm tặng quà thương, bệnh binh. Các mẹ ra về hơn một tiếng đồng hồ, xuất hiện chiếc L19, lượn ba vòng quanh bệnh viện, bắn pháo hiệu; năm phút sau hai phi đội F105D đến ném bom, bắn phá dữ dội; trực thăng đổ quân bao vây bệnh viện. Tôi bị thương vào chân phải, tay phải, và mông bên trái, không kịp băng bó, mất nhiều máu. Một tiếng nổ chát chúa cạnh giường nằm, tôi lăn xuống hầm dưới gầm giường. Bỗng nghe tên Mỹ xì xồ: “Việt Cộng!” Tôi nhìn lên thấy bọn chúng vây kín. Thấy tôi bị thương đầy người, nằm dưới hầm ngập nước, chúng kéo lên xích chân tay, bịt mắt ném lên trực thăng đưa về trại giam Đà Nẵng ngày 5-11-1968. Tên trong tù của tôi là Trần Văn Nhiên, số tù 4551. Mỗi ngày chúng hỏi cung 20 đến 30 lần, rồi tăng lên 40, 50 lần. Trước sau tôi chỉ khai: Làm cấp dưỡng cho thanh niên xung phong trong rừng. Không phải quân chủ lực. Không khai thác được, chúng chuyển sang tra tấn. Địch dùng kim đóng vào mười đầu ngón tay, quấn bông vào đầu kim tẩm xăng đốt; người tôi nóng ran đau phát điên, nghiến răng chịu đến khi bất tỉnh. Chúng hắt nước lạnh vào mặt, tiếp tục hỏi cung, tôi không trả lời. Chúng giải về phòng giam, đưa một chiếc cà mèn có ít cơm màu vàng như nanh chuột, một miếng cá khô mục bốc mùi thiu, vài cọng rau muống.
Chúng quát:
- Ăn đi, đồ con lừa. Phải khai thôi con ạ, sức mấy mà thi gan với đòn roi. Một giờ sau chúng quay lại, thấy tôi không ăn cơm. Bọn quân cảnh lôi ra, dùng dùi cui, roi điện, roi da thay nhau đánh, xét hỏi:
- Mày ở đơn vị nào? Không có câu trả lời. Chúng lại đánh cho đến khi tôi không biết gì nữa, chúng té nước lạnh vào mặt, túm hai chân lôi vào phòng giam khóa cửa.
Phòng giam không thể nằm, phải cúi lom khom, ngồi suốt đêm. Sáng hôm sau chúng mở khóa, hai tên quân cảnh dẫn tôi vào phòng thẩm vấn. Hôm nay chúng dùng đòn tâm lý. Một tên quần áo sơ vin, mũ phớt, môi thâm, đôi mắt ốc lồi ẩn sau cặp kính cận, cười nham hiểm:
- Chào ông Nhiên - Hắn ân cần kéo ghế mời tôi ngồi. Mỉm cười nói:
- Ông nên nghĩ kỹ, hãy trở về với Quốc gia cộng hòa, được đối xử tử tế. Tài như ông sẽ được trọng dụng, có nhà lầu xe hơi, vợ đẹp con khôn, tội chi chui rúc trong xó rừng chuốc khổ vào thân. Nói thật với ông, trước đây tôi là người phía bên kia như ông. Khi về với chánh nghĩa Quốc gia được trọng dụng, đến mách nước cho ông đổi chủ, không nên bỏ lỡ cơ hội này.
Tôi nhìn hắn ta không đổi giọng:
- Tôi làm cấp dưỡng cho thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, không bao giờ theo bọn bán nước, hại dân!
Tên chiêu hồi cúi gằm mặt, phẩy tay. Bọn côn đồ xông vào dùng dùi cui, roi điện, roi da đánh tôi gục xuống sàn. Khi tỉnh lại, chúng trói chân tay vào ghế tựa, dùng kìm nhổ răng, hỏi cung. Đau buốt tận óc, máu chảy chan hòa, tôi ngất. Chúng kéo xác quăng vào phòng giam. Khi tỉnh lại, thấy ở phòng bên một người chừng bốn mươi tuổi, số tù 2521, nhìn tôi hỏi nhỏ:
- Đồng chí quê ở đâu? Bị bắt lâu chưa? Chúng giam tại phòng này những đồng chí trung kiên bị tra tấn rất dã man, ta phải giúp nhau chịu đựng, dù phải hy sinh quyết không đầu hàng giặc!
Có tiếng giày đinh bọn quân cảnh vào điểm danh. Chúng dùng đèn pin đếm từng người tù. Tên quân cảnh chửi:
- Đù mạ bọn Cộng sản cứng đầu. Tụi này chỉ bắn, đổ biển mới xong. Chúng hầm hầm khóa cửa sang phòng khác.
Người bạn tù lại nói nhỏ với tôi:
- Tôi là đảng viên, được tổ chức giao báo cho các bạn biết: Ngày mai chúng sẽ tra tấn dã man hơn. Yêu cầu ta giữ vững ý chí chiến đấu.
Tám giờ sáng hôm sau, chúng gọi tên và số tù từng người, trong phòng giam có 32 anh em, chúng đưa đến phòng chuyên dùng. Một dãy thùng phuy đổ nước ngập vai. Tôi bị hai tên quân cảnh dìm vào thùng phuy, hai tên khác thay nhau cầm chày vồ quật mạnh vào vỏ thùng; lúc đầu nghe tiếng đập ùng oàng như tiếng trống làng trong óc, rất khó thở, máu mồm, máu mũi ộc ra, mắt lồi, tai điếc đặc, bất tỉnh. Chúng lôi ra khỏi thùng, khi tỉnh lại, chúng tiếp tục hỏi mày ở đơn vị nào của Quân Giải phóng?
Tôi lại trả lời:
- Làm cấp dưỡng cho thanh niên xung phong, không phải quân chủ lực.
Tên sĩ quan đấm bàn chửi:
- Đù mạ tụi mày. Đúng là gan Cộng sản, đưa tụi nó sang khu biệt lập!
Khu biệt lập có năm phòng, mỗi phòng giam 40, 50 người. Bữa ăn có nửa bát cơm gạo mục trộn cát, một miếng cá ươn, vài cọng rau muống đựng trong chiếc cà mèn cáu bẩn. Chiếu rách trải trên nền đất dọc hai bên tường, trừ lối đi ở giữa. Đây là cơ hội củng cố tổ chức. Tôi tìm đồng chí đeo số tù 2521 hôm trước - anh Nguyễn Văn Trai - Bí thư đảng ủy nhìn tôi, nháy mắt… Tôi theo anh ra cuối phòng, anh nói:
- Thay mặt tổ chức thông báo: Đồng chí được bổ sung vào cấp ủy, kiêm tổ trưởng Đảng và Bí thư chi đoàn thanh niên. Mật hiệu: Khi đảng viên bắt tay nhau, dùng ngón trỏ mấu chặt là đồng chí mình. Ba ngày sau, Đảng, Đoàn được củng cố vào nề nếp sinh hoạt bằng hình thức học văn hóa, hội họa, đánh cờ, chơi bài tú lơ khơ. Với các hình thức trên, chúng tôi triển khai nghị quyết hằng tháng của chi bộ, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng người.
*
Một hôm, khoảng hai giờ sáng bọn quân cảnh dùng dùi cui đập cửa phòng số 3 điểm danh. Năm quân cảnh xông vào. Tên sĩ quan trên ve áo có ba bông mai, cầm roi điện thư thả vào sau. Khi đến chỗ tôi, anh ta móc túi quần lấy bao thuốc lá, cố ý đánh rơi bao thuốc, cúi xuống nhặt, để lại mảnh giấy nhỏ trước mặt tôi, rồi đi phòng khác.
Tôi dẫm lên mảnh giấy, lén nhặt giấu vào chiếc bao tải. Để anh em ngủ yên, tôi bấm hai đảng viên nằm bên cùng xem mảnh giấy nói gì? Lá thư mật viết: “Sáng mai, chúng đưa các đồng chí ra đảo Phú Quốc giam giữ. Trước khi đi, địch dùng mọi thủ đoạn dã man để chiêu hồi. Hãy giữ vững khí tiết!”. Nội dung lá thư được thông báo toàn trại giam ngay trong đêm, và kế hoạch đối phó với địch. Tôi vui mừng nghĩ, ngay trong lòng địch các chiến sĩ của ta vẫn khôn khéo che mắt quân thù thông báo những tin tức quan trọng giúp chúng tôi đứng vững trước mọi thủ đoạn nham hiểm của địch. Anh em càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng ủy.
Tám giờ ngày 22-2-1969, chúng đưa toàn trại ra khu bãi rộng. Quân cảnh vây quanh, loa phóng thanh oang oang: “Tù binh chú ý: Lệnh thượng cấp đem tù ra biển đổ. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa mở lòng nhân đạo, ai muốn về với chánh nghĩa Quốc gia hãy bước ra khỏi hàng, đứng sang một bên!”. Chúng loa nhiều lần, không ai ra khỏi đội ngũ. Khuôn mặt người tù đanh lại vì căm thù trước âm mưu xảo quyệt của địch. Bọn chúng lồng lộn chửi bới om xòm, dùng đại liên bắn vào đội hình giết năm người tù, nhiều người khác bị thương. Chúng lại dùng loa kêu gọi dụ dỗ, không kết quả. Tên sĩ quan lệnh:
- Đưa chúng ra biển làm mồi cho cá mập!
Thử thách nghiêm trọng đã qua. Chúng giải đoàn tù đến chiếc tàu há mồm trên biển Đà Nẵng. Bọn quân cảnh quát:
- Tụi mày đi hàng một lên tàu, thằng nào chệch hàng bắn bỏ. Con tàu lênh đênh trên biển như chiếc lá trên mặt sóng từ sáng đến khi mặt trời khuất vào vùng đồi núi nhấp nhô trùng điệp, rồi tàu buông neo. Đó là đảo Phú Quốc.
Đảo Phú Quốc mệnh danh là Đảo Ngọc, hòn đảo lớn nhất Việt Nam, cũng là đảo lớn trong quần thể 22 đảo tại đây, lần đầu tôi đến. Đảo nằm trong vịnh Thái Lan. Đảo Phú Quốc cùng với các đảo khác tạo thành huyện đảo Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang. Năm 1862 Pháp chiếm Phú Quốc, thành lập đồn điền trồng hồ tiêu và dừa. Do đảo cách xa đất liền, người Pháp tận dụng lợi thế này xây nhà tù trên đảo. Pháp xây trại giam Cây Dừa. Sau hiệp định Giơ ne vơ (1954), Pháp rút khỏi Việt Nam, Mỹ vào mở rộng nhà lao Cây Dừa (các năm 1955-1957, 1967-1973) giam hơn 40.000 tù chiến tranh. Trại giam xây tại thung lũng An Thới thuộc ấp 5, xã Dương Tơ, sau ngày giải phóng tách ra thành xã An Thới bây giờ. Trại giam Phú Quốc dài hơn 5 km, tổng diện tích khoảng 400 ha, chia làm 12 khu; mỗi khu có 4 phân khu, mỗi phân khu có 9 phòng giam, mỗi phòng nhốt từ 50 - 60 người theo thiết kế. Nhưng chúng nhồi nhét 100 đến 150 người, thậm chí 200 người. Nhà lợp tôn, nắng nóng như nung, mưa rét thấu xương, trong nhà cũng ướt như ngoài sân.
Lúc đầu nền đất, ta đào hầm vượt ngục, sau chúng láng nền xi măng. Rào kẽm gai nhiều kiểu, nhiều lớp bao quanh trại giam; 10 vọng gác quân cảnh và chó béc dê tuần tra 24/24 giờ. Cứ 30m một bóng đèn 120w và hệ thống đèn pha 150w; bãi mìn pháo sáng quanh trại; chúng phun thuốc diệt cỏ tạo vành đai trắng cách li với khu dân cư.
Trại giam Phú Quốc tiếp nhận tù binh từ ngày 6-7-1967, từ các trại: Non Nước (Đà Nẵng), Pờ lây ku - Gia Lai, Biên Hòa, Cần Thơ. Chúng tôi bị giam ở khu 12. Mọi tù bình từ đất liền ra đảo tập trung tại đây làm thủ tục, trước khi chuyển tới các phân khu giam cố định theo từng loại tù. Chúng chia ra làm bốn phân khu gồm: A1, B2, D3, D4. Trước khi nhập trại chúng bịt mắt, xích tay chân tù đưa lên xe, đến một bãi cát chúng bắt xuống xe mở khăn bịt mắt, xếp hàng ngang nằm ngửa mặt lên trời, ánh mặt trời chói chang nước mắt chảy giàn giụa.
Chúng hỏi:
Mặt trời Phú Quốc tròn hay méo?
Anh em bảo:
- Tròn.
Chúng lao vào đánh đập tàn nhẫn, quân cảnh thi nhau nện gót giầy đinh lên bụng, lên mặt người tù, chửi:
- Đù mạ tụi mày, mặt trời ở đây méo, chứ tròn cái ông nội mày ư.
Chúng hành hạ hơn một tiếng đồng hồ, lại hỏi:
- Trong bọn mày, đứa nào theo chúng tao vào trại tân sinh chiêu hồi, đưa tay lên? Chúng nhắc lại nhiều lần không có câu trả lời. Chúng lại đánh đập dã man hơn, máu nhuộm đỏ bãi cát; chân tay, mặt mũi tù nhân bầm dập, anh Dương quê ở tỉnh Thái Bình, anh Bảng quê Nam Hà bị chúng đánh vỡ mặt, gẫy chân chết ngất. Tôi lật nghiêng người né đòn bị nện dùi cui, báng súng vào đùi, hông, đầu… bất tỉnh.
Trước lúc nhập trại, giám thị đọc tên, số tù từng người xếp hàng một đi vào trại. Quân cảnh đứng hai bên đường dùng dùi cui, roi điện quất tới tấp vào người tù. Nhiều anh ngã gục. Nhờ bạn tù trong trại đổ ra, đả đảo sự tàn bạo của bọn quân cảnh, hai người xốc nách một người vào phòng giam. Đêm ấy, được bạn tù cũ lấy nước tiểu phơi nắng xoa bóp vết thương bầm tím cho anh em mới vào đỡ đau. Có một anh mang số tù 2548, dáng cao mảnh khảnh, giam tại phòng số 5 cầm mảnh vải chấm vào bát nước tiểu xoa bóp vết thương cho tôi, hỏi nhỏ:
- Anh là đảng viên phải không? Tôi gật đầu, đúng!
Anh nói:
- Tôi là Đinh Khắc Tố, quê đất thép Củ Chi - Bí thư đảng ủy phân khu này, nơi có tổ chức Đảng, Đoàn, Hội đồng hương vững mạnh; cũng là phân khu bị địch tra tấn dã man nhất. Nói đến đây anh vội chia tay tôi vì tiếng kẻng giới nghiêm đã điểm. Tối hôm sau anh Tố lại đến xoa bóp cho tôi, anh ghé tai nói nhỏ:
- Thay mặt tổ chức giao nhiệm vụ cho đồng chí từ giờ phút này là cấp ủy, Bí thư chi bộ, trong ban lãnh đạo đấu tranh đòi cải thiện đời sống, chống tra tấn dã man. Đồng chí thấy thế nào?
Tôi hứa:
- Dù phải hy sinh tính mạng, sẵn sàng hoàn thành nhiêm vụ Đảng giao!
Anh Tố siết chặt tay tôi nói:
- Đồng chí xác định thế là tốt. Đầu năm 1969, địch chuyển chúng tôi từ Đà Nẵng đến phân khu C4 đảo Phú Quốc, phân khu có truyền thống đấu tranh bất khuất, nơi kẻ thù đàn áp dã man nhất, chúng ngang nhiên xả súng vào trại giết 25 người, làm bị thương 36 người khác, khi chúng tôi biểu tình ngồi đòi cải thiện đời sống.
Như lửa thêm dầu, anh em đào hầm vượt ngục được 28/41 người. Đi lấy củi trong rừng đánh quân cảnh cướp súng trốn thoát 6 người. Nằm trong thùng phân trốn thoát 10 người. Tuyệt thực đòi cải thiện đời sống, chống tra tấn dã man...
Phân khu có 9 phòng, mỗi phòng nhốt 200 tù; trong này có 1 đại diện, 9 trưởng, phó phòng do tổ chức lựa chọn giao nhiệm vụ. Tôi là trưởng phòng số 6. Các anh Vũ Đình Hạnh, ở xóm 5 xã Vĩnh Minh, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, phó phòng. Anh Toàn quê ở tỉnh Hải Dương phó bí thư đảng ủy. Anh Hòa, quê Hải Dương là Thường vụ đảng ủy. Phân khu có 3 chi bộ. Cứ 3 phòng 1 chi bộ. Tôi là Bí thư chi bộ 2, kiêm trưởng phòng, Trưởng ban Hội đồng hương huyện Vĩnh Lộc; ủy viên Hội đồng hương tỉnh Thanh Hóa đồng thời là giáo viên dạy hội họa trong tù.
Hội đồng hương huyện Vĩnh Lộc, có các anh Vũ Đình Phán, xã Vĩnh Long, anh Quẩy, xã Vĩnh Quang; Nguyễn Văn Chỉnh, xã Vĩnh Yên, Nguyễn Quốc Trượng, xã Vĩnh Thành; Lê Minh Cư, xã Vĩnh Phúc; Vũ Đình Hanh, xã Vĩnh Minh; anh Hai, xã Vĩnh Tiến. Hội đồng hương Thanh Hóa có anh Hưng, anh Mạnh, huyện Hậu Lộc; Bùi Đình Tựa, huyện Quảng Xương.
Chúng tôi tuyệt thực đòi bọn cai tù cấp đủ chế độ, tiêu chuẩn quy định. Không ăn gạo mốc trộn cát, thực phẩm ươn thiu, thối. Cho anh em đào giếng lấy nước sinh hoạt, tự nấu ăn hằng ngày. Được đi lại trong trại từ phòng số 1 đến phòng số 9, thăm nhau lúc ốm đau. Được học văn hóa, chơi cờ, chơi bài. Không được tra tấn, dã man; vô cớ bắn vào trại giam; không bắt anh em làm việc liên quan đến chiến tranh như: Đập đá xây lô cốt, đào hào, làm hầm cho bọn quân cảnh. Tuyệt thực là hình thức đấu tranh bán hợp pháp được vận dụng thích hợp vào từng thời điểm của mỗi phân khu trong trại giam, dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của đảng ủy. Lúc bắt đầu tuyệt thực anh em nằm trong phòng không ra sân điểm danh, không cho quân cảnh vào; mọi sinh hoạt theo nội quy trại giam bị tê liệt. Anh em ra sân ngồi thành khối tắm nắng… Để đấu tranh thắng lợi chúng tôi chuẩn bị tinh thần, vật chất, và hành động cụ thể cho từng người. Gạo rang, nước uống, bồ hóng, lá bông hôi, vải băng bó vết thương, nước tiểu phơi nắng dùng xoa bóp đã sẵn sàng. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên gương mẫu hoàn thành nhiệm vụ của mình. Cuộc tuyệt thực đến ngày thứ 8, bọn cai ngục không chấp nhận ưu sách. Ngày thứ 11 chúng vẫn không chịu. Lúc này, có 1/3 anh em thương tật nặng bất động. Vì mỗi bữa ăn chỉ một nhúm gạo rang, uống nước lã cầm hơi. Địch xào nấu món ăn thơm ngon dùng máy hút mùi phun sang phía chúng tôi, kêu gọi:
- Anh em tù hãy bãi bỏ cuộc tuyệt thực, về với chánh nghĩa Quốc gia là khôn ngoan nhất, tội gì chết đói thê lương!
Chúng loa cả ngày không kết quả. Tên giám thị ác ôn nói:
- Thượng cấp không chấp nhận ưu sách, tụi mày ngoan cố, tao để cho chết.
Đêm hôm đó, hai tên quân cảnh dẫn một người tù bị tra tấn thảm hại đưa vào chỗ chúng tôi. Hai tên lính nói với nhau:
- Đây là tên Việt cộng ngoan cố nhất…
Ngay sau đó chúng tôi nhận được thông báo của trên: “Bằng mọi cách các đồng chí phải khử tên chiêu hồi chúng mới đưa vào trà trộn trong trại, hòng dò la tin tức!” Chúng tôi cử một đồng chí bên lực lượng biệt động nằm cạnh tên chiêu hồi, bấm huyệt giết nó ngay trong đêm, địch càng lồng lộn, không chấp nhận yêu sách của ta. Cuộc tuyệt thực chưa có kết quả. Tôi hội ý cấp ủy, báo cáo Thường vụ đảng ủy xin chuyển phương án hai. Lấy tinh thần xung phong tự mổ bụng moi gan trước mặt kẻ thù, thà hy sinh tất cả quyết không lùi bước! Cần hai người hành động, nhưng có tới 12 người xung phong, gồm: Lê Bá Giao, Phạm Khắc Bình, Lê Thế Đồng, Trần Văn Hai, Bùi Thế Minh, Phạm Công Luận, Phạm Trung Tuấn, Phạm Cương Quyết, Đinh Khắc Định, Phạm Công Thắng, Trần Nguyên Mạnh, Đoàn Minh Nhất. Cấp ủy quyết định: Ai bốc trúng thăm hành động sẽ được giao nhiệm vụ thiêng liêng này. Hai người trúng thăm là Lê Bá Giao (Tên trong tù là Phạm Văn Bình) quê huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa và anh Trần Nguyên Mạnh (Tên trong tù là Trần Văn Nanh) quê huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Hai người sinh hoạt tại phòng số 6 do tôi làm trưởng phòng, tự mổ bụng châm ngòi nổ cho cuộc đấu tranh giành thắng lợi vẻ vang. Các anh đã anh dũng hy sinh.
Khoảng 10 giờ sáng tên giám thị đại gian ác cùng 5 sĩ quan quân cảnh vào phòng giam dụ dỗ, đe dọa anh em tù bãi cuộc tuyệt thực. Hai đồng chí Lê Bá Giao và Trần Nguyên Mạnh đứng phắt lên nói: Bọn tay sai bán nước kia, chúng tao căm thù Mỹ Ngụy tận xương tủy, đến lúc này chúng mày còn chưa mở mắt ra sao. Hãy xem đây. Đồng chí Giao phanh áo, cầm con dao làm bằng cán cà mèn sắc như nước rạch bụng, máu phun đỏ người vẫn nói: Thà hy sinh tất cả, quyết không lùi cuộc đấu tranh!
Tiếp theo, đồng chí Trần Nguyên Mạnh cầm dao cắt gọn chùm dương vật ném vào mặt tên trung tá Nguyễn Hữu Phước giám thị trại giam. Bọn cai ngục hốt hoảng bỏ chạy, khua kẻng hổ liên báo động. Ba mươi phút sau chúng quay lại, tên Phước nói:
- Tôi thay mặt chỉ huy trại giam yêu cầu anh em hãy bình tĩnh trở lại sinh hoạt bình thường. Mời đại diện và trưởng phòng ra ngay phòng giám thị để tôi giải quyết những yêu sách anh em đề ra, chúng tôi hứa chấp nhận tất cả! Mười hai ngày tuyệt thực của phân khu C4 giành thắng lợi vẻ vang. Bởi sự hy sinh quả cảm của các chiến sĩ cách mạng trước kẻ thù, tiêu biểu là hai đồng chí Lê Bá Giao, Trần Nguyên Mạnh nêu gương sáng về khí tiết bất khuất của người đảng viên Cộng sản, xứng danh anh bộ đội Cụ Hồ! Mới đó, đã hơn bốn mươi năm trôi qua. Nhiều đêm trong giấc ngủ mơ tôi đập giường hô: “Đả đảo sự tra tấn dã man!” Vợ tôi phải lay tỉnh… Khi tỉnh lại người tôi run rẩy căm hờn. Tôi không lý giải nổi vì sao bị tra tấn dã man vậy mà chúng tôi vẫn đùm bọc nhau anh dũng vượt lên chính mình, giữ vững lòng tin với Đảng với Dân trong hang ổ quân thù. Ngày 12-2-1973, theo tinh thần hiệp định Pa ri, anh em tù phân khu C4 chúng tôi được trao trả đợt một tại bến sông Thạch Hãn. Thượng tướng Trần Văn Trà thay mặt Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp nhận. Bốn năm bị giam cầm tra tấn dã man (1969 -1973) từ cõi chết trở về đứng bên bờ sông Thạch Hãn chúng tôi sung sướng ôm nhau khóc như mưa. Ôi, tổ quốc bao năm chìm trong máu lửa đấu tranh cho Độc lập - Tự do. Chúng con sẵn sàng hy sinh cho Người sống mãi Việt Nam ơi!
Đầu tháng 6 - 2016, vợ chồng tôi được cháu Trần Đăng Hải, con ông anh vợ mời vào thăm Phú Quốc. Tôi thăm lại nhà tù Phú Quốc, đang chăm chú quan sát các phòng tra tấn trong trại giam, có ai vỗ vai hỏi:
- Ông có phải là Trần Văn Nhiên không?
- Phải. Ông là… Ôi, anh Phạm Văn Chính, người cùng chi bộ, quê Quảng Nam.
Hai người lính râu tóc bạc phơ ôm nhau mừng mừng, tủi tủi… khóc như mưa. Vợ tôi, vợ anh Chính không cầm được nước mắt. Dân chúng đổ ra gọi to: Đồng chí bí thư chi bộ Trần Văn Nhiên vào thăm Phú Quốc bà con ơi! Dân kéo ra mỗi lúc một đông. Tôi và anh Chính, trở thành hướng dẫn viên trước đông đảo khách trong nước, và quốc tế đến tham quan trại giam Phú Quốc. Họ vây quanh chúng tôi nói:
- Nhân chứng tù Phú Quốc, đây. Ta chụp ảnh lưu niệm với hai bác bà con ơi!
Chúng tôi cùng cán bộ, dân địa phương, khách tham quan chụp nhiều ảnh kỷ niệm trên đảo Phú Quốc sau 43 năm trở lại nơi này ký ức bi hùng đẹp nhất đời tôi gắn liền với vận mệnh nước nhà, không thể nào quên!
Tháng 7 - 2016
Ngô Xuân Tiếu (ghi theo lời
kể của ông Trần Quang Nghiêm)