Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Bình luận văn nghệ   /   Tản mạn từ cuộc thi Thơ Thanh Hóa năm 2024 
Tản mạn từ cuộc thi Thơ Thanh Hóa năm 2024 

Tản mạn từ cuộc thi Thơ Thanh Hóa năm 2024 

VŨ QUẦN PHƯƠNG

Tạp chí Văn nghệ Xứ Thanh - Cơ quan ngôn luận của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa, thường niên đã mở nhiều cuộc thi ở các loại hình nghệ thuật (mỗi năm từ một đến hai cuộc). Phần Sơ khảo cuộc thi với sự tham gia của các nhà thơ có uy tín ở địa phương nhưng phần Chung khảo, để thật khách quan, Ban Tổ chức mời các nhà thơ đã từng hoặc đang làm biên tập thơ của các tuần báo hoặc tạp chí văn nghệ phát hành trong cả nước tham dự. Lần này Tạp chí mời tôi tham gia Hội đồng Chung khảo cuộc thi Thơ Thanh Hóa năm 2024.
Cuộc thi Thơ Thanh Hóa được phát động từ ngày 01 tháng 01 năm 2024, kết thúc vào ngày 30 tháng 11 năm 2024, Ban Tổ chức đã nhận được hàng ngàn tác phẩm của hàng trăm tác giả trên khắp mọi miền Tổ quốc. Số lượng tác phẩm đưa vào vòng Sơ khảo là 300 tác phẩm của gần 200 tác giả. Ban Sơ khảo đã chọn 50 tác phẩm của 40 tác giả vào Chung khảo.
Ban Chung khảo do Ban Tổ chức cuộc thi thành lập, gồm có: Nhà thơ Đoàn Văn Mật, đương nhiệm Trưởng Ban Thơ trẻ - Tạp chí Văn nghệ Quân đội; Nhà thơ nữ Phan Thị Thanh Nhàn, thuộc lớp nhà thơ xuất hiện trong kháng chiến chống Mỹ; Nhà thơ Vũ Quần Phương, làm thơ và viết phê bình thơ, cũng thuộc lớp xuất hiện trong kháng chiến chống Mỹ, đã có 20 năm trong Hội đồng Thơ Việt Nam. Ban Chung khảo đọc trên bản thảo rọc phách, không ghi tên tác giả. Chọn từ giải Nhất tới giải cuối cùng bằng thảo luận, thuyết phục và biểu quyết công khai. Kết quả chúng tôi không phải biểu quyết. Thống nhất ý kiến ngay sau bàn luận.
Thể lệ cuộc thi Thơ Thanh Hóa trên Tạp chí Văn nghệ Xứ Thanh năm 2024 đã nêu khá cụ thể đề tài và chủ đề thơ cho cuộc thi. Ấy là ca ngợi vẻ đẹp của đất đai, sông núi, thiên nhiên Thanh Hóa và của tâm hồn con người trong tình cảm, trong nết ăn nết ở, trong tinh thần chiến đấu hi sinh giữ làng giữ nước, trong lao động sản xuất, trong công việc thường  ngày… từ xa xưa trong truyền thuyết, trong lịch sử và của bây giờ. Đặc biệt cho thấy những đổi thay, sự lớn mạnh của các mặt đời sống và tiềm lực của người dân Thanh Hóa.   
Ban Sơ khảo đã thẩm định, tuyển chọn các tác phẩm vào Chung khảo cũng đúng theo tiêu chuẩn đó. Những công đoạn ấy đã tạo thuận lợi cho công việc bình giá, so sánh của Chung khảo để sắp xếp thứ hạng. Nhưng quả là việc giới hạn đề tài, chủ đề rất khoa học và thực hiện mục đích cuộc thi có gây khó khăn cho các tác giả trong việc nâng cấp hoặc mở rộng chủ đề, đề tài và cảm hứng thơ khi các tác giả lao động nghệ thuật. Nhưng các tác giả đã khéo léo vượt qua. Nhất là ở các tác phẩm đã vào Chung khảo. Đó là sản phẩm của những cây bút đã có thâm niên lao động thơ. Bút pháp có tính đại diện của cuộc thi này vẫn là bút pháp hiện thực xen kẽ yếu tố lãng mạn trong ý, trong câu nhằm kỳ ảo hóa thiên nhiên và thơ mộng hóa, tâm linh hóa những chi tiết trong tích xưa, chuyện cũ. Tác giả dự thi chủ yếu là các cây bút Thanh Hóa, nhưng các tỉnh bạn cũng có phần đóng góp ý nghĩa. Ý nghĩa nhất là giải Nhất của cuộc thi Thơ Thanh Hóa lại thuộc về một công dân Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, nhà thơ - Đại tá Nguyễn Hữu Quý. Nguyễn Hữu Quý, trước khi nghỉ hưu, là Trưởng Ban Thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Anh là người biên tập ân cần với bạn viết, đúng như một đức tính truyền thống của nhà 4 Lý Nam Đế, Hà Nội và là một nhà thơ chăm chỉ viết. Từ ngày nghỉ hưu, sản phẩm ra nhà in của anh có khi còn mau hơn lúc đương nhiệm. Tôi đọc thơ anh Quý không được nhiều nhưng bài nào ngẫu nhiên được gặp tôi đều đọc. Thơ không chỉ nói việc quân mà như quyện hơn với cuộc đời thường nhật, tầm nghĩ chuyện đời sâu nặng hơn. Ở bài thơ vào giải kỳ này, anh dành cho sự khám phá vẻ đẹp tâm hồn của con người xứ Thanh. Khám phá từ những chi tiết bình dị, khiêm nhường nhất: cây rau má cứu đói thời gian khổ bò đến bàn tay bà mẹ nghèo thì thành câu hát. Câu hò đẫm mồ hôi dô tả dô tà đã có tự nghìn năm vẫn đủ sức làm người thời nay khó ngủ. Những ý thơ ý định ca ngợi thành tựu mọi mặt của Thanh Hóa của Nguyễn Hữu Quý bỗng nhiên chìm vào những ngẫm nghĩ trung hậu, sâu nặng về đời. Bài thơ vừa bao quát vừa đụng đến cội nguồn những thành công hôm nay.
Giải Nhì cuộc thi thuộc về hai tác giả: 
- Anh Hoàng Quốc Cảnh, với chùm thơ hai bài: “Thợ sơn tràng”; “Dưới kia là núi”. Đúng ra đã chọn bài “Thợ sơn tràng” vào diện giải. Bài sau, do đề tài của tập sách in sau này, chúng tôi để thêm vào, chứ không phải định lấy ngắn hai cho bù nhau để chọi với dài một. Bút pháp lẫn cảm xúc bài “Thợ sơn tràng” gợi nhớ một giai đoạn thơ “đến nơi tiền tuyến viết về những người tiền tuyến” thơ thiên về kể sự kiện và thành tích những người lao động. Giọng thơ chân thực, xốc vác, nhiều chi tiết ngoài đời thành chi tiết thơ nguyên khối. Chất trữ tình chủ thể được loại bỏ, lấy khách thể làm cứu cánh. Từ Đổi mới, phẩm chất trữ tình chủ thế được tràn vào nhiều hơn, nỗi niềm con người được chia sẻ. Đó là một bước tiến cho thơ gần người, tác giả gần bạn đọc. Nhưng bỏ hẳn những chân dung trung thực người lao động thủ công, với dụng cụ thô sơ và cõi lòng trong sáng. Trong sáng như bút pháp bài thơ biểu hiện họ, có nên không? Trên người họ chưa thấy dấu vết một thứ công cụ nào của cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, trong khi nhân loại, có cả nước ta, đang ở cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chúng ta cảm động và nhận ra: họ như dấu vết một thời hoang dã đang hồn nhiên và hăng hái, đang hăng hái và ý thức góp phần xây dựng thời đại văn minh. Chất thơ là ở đây. Tác giả đã nhìn ra và dùng một thủ pháp thơ thích hợp để tôn vinh. Và chúng ta cũng từ đấy mà tôn vinh tác giả. Tôi cũng xin nhắc tới một hình ảnh thơ Thanh Hóa đồng chất với anh thợ sơn tràng này. Bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy, nhà thơ xứ Thanh, có nhắc đến người bà, tuổi cao mà còn lam lũ, vất vả lắm. Tôi nhớ những câu thơ:
Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết 
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.
Dù “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết” nhưng bà vẫn ở lại. Bà tự nuôi mình và đỡ vào lúc đói khát của bà con áo ngắn đi tàu đêm trên những đoạn đường sắt ngắn giữa vùng bom. Hai câu ấy trội lên trong bài, và bài thơ ấy trội lên trong gia tài thơ Nguyễn Duy là nhờ ở câu thơ phụ về thánh thần trước khi hình ảnh bà “bán trứng ở ga Lèn” xuất hiện. Đấy là những đường viền của tài năng, anh Hoàng Quốc Cảnh nên lưu tâm. 
- Đồng Giải Nhì, tác giả Hà Văn Đạt với tác phẩm “Về thăm Bến En”. Công trình hồ đập Bến En ở huyện Như Thanh là niềm tự hào của bà con Thanh Hóa. Tự hào về cảnh sắc thiên nhiên, hoa lá, hang động, về cây lim già thẳng cao, “bất khuất”, về hồ sông Mực với bốn suối đổ vào, về 21 hòn đảo lớn nhỏ, về rượu cần múa Thái… Ai đến đây cũng thấy thơ. Nhưng làm ra bài thơ thì lại khó. Khó vì những điều cần nói thì ai cũng thấy rồi. Đây là chỗ người thơ phải vượt: vượt bằng cấu tứ, vượt bằng nâng cấp chủ đề nhập vào mạch tư duy triết học… Nhiều nẻo lắm. Nhưng như thế lại dễ chệch khỏi mục đích cuộc thi đã được thể lệ “giao hẹn” từ đầu, hao hao nội dung một lời mời du lịch. Tác giả Hà Văn Đạt, hiện ở quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội, đã có sáng kiến đạt được cả hai đích của cuộc thi: vừa có tính thơ vừa quảng bá du lịch. Mỗi vẻ đẹp của thiên nhiên anh lại hình dung ra một vẻ đẹp tương ứng, nhưng kỳ ảo hơn - đây chính là nét đẹp không phải ai cũng thấy được và chính là lý do tồn tại của bài thơ. Những nét biến hóa này được thể hiện cũng biến hóa trong các câu thơ. Như anh nhìn hồ Sông Mực thấy nó biến thành sự hài hòa của âm thanh giữa non và nước và các hòn đảo như những giọt trời xanh vừa sa xuống. Ở chỗ khác thì anh thành người bị thiên nhiên gây mê, cô gái Thái xòe gây mê anh bằng nụ cười khói sương và nụ cười e ấp, cần cong rượu cần anh nhìn ra vũ điệu mà tự say. Bài thơ chưa thành khối thì chia thành từng mảnh mà tạo nên hình kép lồng nhau.
Cuộc thi có 03 Giải Ba: 
- Chị Phạm Thị Kim Khánh có bài thơ lạ: “Con xin ru mế một lần”. Lạ cả tình và tứ: Mế đã bao lần ru con. Mế ru ấm ru êm, mế ru tươi ru tốt. Cho con xin ru mế một lần, chỉ được một lần thôi, lúc mế bay về với tổ tiên. Ru mế, con ru bằng nước mắt. Nước mắt mặn nỗi đau. Con ru để mế quên những nỗi đau đã trải, để mế về Mường xa gặp lại ông bà, gặp lại bạn thanh tân, để khuyên mế đừng là kiếp khổ nghèo. Bài thơ đắm đuối trong tình mẫu tử. Và hơn thế cả khát vọng của thế hệ sau muốn đền bù tri ân thế hệ trước. Đấy là hạnh phúc của xã hội ta. Đôi lúc ngỡ như phi lý nhưng xúc động lại đầy. Nếu thể lệ cuộc thi cho phóng khoáng hơn về đề tài và chủ đề, bài này có thể xếp sang hạng cao hơn.
- Anh Đinh Ngọc Diệp với bài thơ “Nơi Từ Thức gặp tiên”. Bài thơ viết về Từ Thức gặp tiên, gặp tiên thì sống với tiên. Sống với tiên thì nhiều thứ mê ly nhưng rồi cũng nhớ nhà, trước nhớ ít sau nhớ nhiều. Nhớ quay quắt, đành trố tiền mà về trần. Tới trần thì làng xóm đổi thay, người làng đã qua đi mấy đời. Chả ai nhận ra Thức mà Thức cũng chả biết ai. Thế là Thức bỏ đi, đến bây giờ cũng chưa ai gặp lại. Tác giả Đinh Ngọc Diệp có nêu hai ngả: ngả tình yêu và ngả quê hương. Có lúc anh thiên về tình yêu, có lúc anh lại bảo tình yêu nó hay bịt mắt đánh lửa. Bốn câu cuối của bài thơ: 
Khát yêu của con tim làm cho đá rực rỡ
Đêm cuống lên nồng nàn
Đẹp như nơi Từ Thức
Tình yêu bịt mắt nhau đánh lửa.
Ban Chung khảo đọc xong cũng chưa biết anh Diệp chọn hướng nào. Thế là họ xếp anh vào diện giải. Tôi thấy họ có lý. Khi gặp họ, hỏi lại. Vẫn thấy họ lơ mơ. Chuyện tình yêu là vậy. Nhưng viết về cái lơ mơ thì vẫn cần câu thơ rành rọt. 
- Đồng giải Ba thứ ba thuộc về tác phẩm “Trên đỉnh núi Nưa” của anh Đinh Ngọc Lâm, ở tỉnh Ninh Bình. Thơ ngắn về núi Nưa, nhưng có giọng anh hùng ca. Âm vang huyền thoại hào hứng trộn trong ý vị lịch sử. Chất liệu thơ không mới. Nhưng ngôn ngữ có dư ba.
Tôi muốn được nói thêm về bốn giải Tư, chất lượng chỉ hụt chút xíu với các giải vừa nói. Nhưng dung lượng bài viết có hạn. Tôi xin điểm tên tác giả và tác phẩm:
- Tác giả Vũ Quang Trạch với bài thơ “Bàn tay em họa tiết trống đồng”, có tứ thơ bao quát: tiếng trống mở bầu trời Hùng Vương.
- Tác giả Mai Hương với bài thơ “Về Nga Sơn”. Giọng thơ lục bát khá duyên dáng.
- Tác giả Trường Cửu với bài thơ “Về hang Co Phương”. Hang Co Phương còn gọi là hang Cây Khế. Thơ như nén hương đau đớn thắp lên từ cõi lòng tưởng nhớ mười một dân công hi sinh khi giặc Pháp ném bom lấp cửa hang ngày 2-4-1953.
- Tác giả Hạnh Lê với bài thơ “Thành phố mình thao thức đợi bình minh”. Hình ảnh thì biểu tượng cho Thanh Hóa hôm nay. Nhưng từng câu thơ lại giàu hiện thực. 
Bộ giải ngoài 10 giải chính thức còn có thêm 02 giải Chuyên đề trao cho tác phẩm hay nhất viết về Vườn Quốc gia Bến En. Ban Giám khảo đã chọn và trao giải cho tác phẩm “Đoản khúc Bến En” của tác giả Trịnh Oanh Lan”; và tác phẩm “Chiều Bến En” của tác giả Nguyễn Xuân Nha. 
Có thể nói, cuộc thi thơ đã thành công. Ban Tổ chức mời tôi về dự lễ trao giải và đi thực địa một số địa chỉ văn hóa, du lịch… Thêm một lần tôi cảm nhận rõ hơn về vùng đất và con người Thanh Hóa. Mong là Tạp chí sẽ luôn duy trì được các cuộc thi để các cây bút trong và ngoài tỉnh tiếp tục được giao lưu, thể hiện tài năng, đồng thời nhân lên tình yêu với mảnh đất xứ Thanh này.
                                                                                            V.Q.P 


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 208
 Hôm nay: 6296
 Tổng số truy cập: 13320971
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa