Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /     /   Chạy về phía mặt trời - Nguyễn Hải
Chạy về phía mặt trời - Nguyễn Hải

Cửa biển Lạch Trường chiều nay ồn ào, nhộn nhịp quá, khác hẳn với cái vẻ lặng lẽ cách đây vài ngày, những chiếc xe tải tấn rưỡi, hai tấn ra vào bến tàu như trẩy hội, xe chở đá, xe chở dầu máy, xe chở nước ngọt, khay, thùng, tời, lưới, xe máy, xe ba gác chở người, chở đồ ăn thức uống rầm rập vào bến tàu bóp còi inh ỏi, tiếng cười, nói, la ó huyên náo. Với gần một trăm chiếc tàu đánh bắt xa bờ chuẩn bị nhổ neo cùng lúc thì lượng người và hàng hóa tập kết tại bến tàu là không nhỏ. Mấy người đàn ông đứng trên mũi tàu nói như la lên giục những người đang lúi húi phía trên bờ nhanh chân lên cho kịp giờ xuất bến. Đúng là người cửa biển, ăn sóng nói gió quen rồi nên nội lực trong tiếng nói của họ cũng lớn, nói như không biết mệt, góp phần làm cho bến tàu thêm phần náo nhiệt. 
Anh Thắng, chủ tàu, người đứng trên mũi tàu chào đón tôi bằng một nụ cười tươi rói rồi hướng dẫn cho tôi đi qua cầu luồng để lên tàu. 
- Chờ anh em bốc đồ xong là đi thôi. Em vào cất đồ đi, ngồi trong ca bin nghỉ cho đỡ mệt rồi ta đi, chắc khoảng nửa tiếng nữa.
- Vâng.
Đội của anh Thắng có năm chiếc cùng xuất phát giờ này, ngoài con tàu 69 của anh thì còn ba chiếc nằm bên mạn phải 11, 22, 35 và chiếc 65 nằm bên mạn trái đây là các số cuối trong dãy năm số đăng ký của các tàu giống như biển số xe máy vậy. Việc xuất phát trước hay sau của các tàu không có luật nào quy định mà chủ các tàu tự đấu mối với nhau, thông thường thì tàu nào chuyến trước về sau thì chuyến này đi trước và ngược lại. Các tàu nối đuôi nhau ra khơi bằng những tiếng ga máy rít mạnh bỏ lại phía sau nơi mặt sông dải bọt nước dài trắng xóa và vệt khói đen từ ống khói trên nóc ca bin, những con tàu như những chú ngựa bị quất mạnh roi vào mông tung vó phi nước đại, chạy thẳng luồng lạch nhắm về hướng biển. 
Mười sáu giờ năm phút con tàu mang số hiệu TH 90269 với 400CV bỏ lại phía sau dòng bọt nước trắng xóa rời khỏi bến bờ ngược về phía biển nơi những luồng cá đang chờ đợi. Bến bờ xa dần, mờ dần trong ánh nắng cuối chiều, những thanh âm của đất liền đã hết, tôi chỉ còn nghe thấy tiếng gió, tiếng máy ù ù bên tai, cảm giác lúc này thật lạ. Con tàu đi những mét cuối cùng của cửa lạch, lươn lướt qua các đầm nuôi ngao nơi có các chòi canh cao hơn mặt nước vài mét chơ chọi giữa mênh mông. Đài tưởng niệm chiến thắng trận đầu của Hải quân Nhân dân Việt Nam bên núi Cồn Bò có lẽ là hình ảnh cuối cùng của đất liền, bởi nhìn từ phía biển vào theo hướng Đông Nam mũi Cồn Bò và đảo Nẹ như hai trụ cổng và sông Lạch Trường là lối dẫn vào nhà. Đi qua Cồn Bò và đảo Nẹ sẽ gặp Hòn Sụp, vệ sĩ trung thành đứng gác cửa Lạch Trường suốt cả nghìn năm qua từ thuở hồng hoang, khi hình thành địa chất.
Chân trời phía tây chỉ còn một vầng mây lớn ửng đỏ, những gợn mây như hình từng dải sóng bay ngược từ phía bờ biển lên nền trời chiều chạng vạng. Ba giờ sáng, tàu đang lao vun vút với tốc độ hơn sáu mươi hải lí một giờ thì bỗng dưng giảm tốc, bẻ lái chín mươi độ về phía nam, chạy khoảng hai hải lí nữa thì tàu dừng. Soi trên máy định vị, tàu vẫn đang nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, trên màn hình máy dò báo ở độ sâu sáu mươi tám mét nước đã xuất hiện dấu hiệu của đàn cá, anh Thắng ra ngoài thành tàu nhìn mặt nước đoán hải lưu chảy mạnh, quay vào cất giọng như đánh kẻng:
- Dậy đi, dậy đi, chuẩn bị bỏ lưới, nhanh lên, nhanh lên.
Trên ca bin nãy giờ anh Thắng vẫn liên tục trao đổi công việc với các tàu trong đội của mình qua bộ đàm, các trưởng tàu đang bàn tính về khả năng di chuyển và độ lớn của đàn cá cũng như hướng gió và hướng nước.
- Thả đi. 
Anh Thắng từ ca bin nói dứt khoát và lớn giọng hướng về phía đuôi tàu nơi Tiệp đang trong tư thế sẵn sàng tung phao từ nãy đến giờ. 
- Thả rồi.
Anh Thắng đẩy tay ga, con máy bốn trăm sức ngựa gầm rú dưới hầm tàu, đẩy con tàu lao đi, lưới và tời theo máng cứ dàn dạt chảy xuống biển, con tàu sẽ vẽ lên mặt biển một hình bán nguyệt với chiều dài khoảng 3 cây số lưới. Cứ khoảng hơn một trăm mét lưới thì tàu lại chạy chậm lại cho Tiệp gắn phao, rồi lại chồm lên lao về phía trước, điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại cho đến chiếc phao cuối cùng, quy trình ấy sẽ mất khoảng hai đến ba tiếng để hoàn thành. 
Mười một giờ trưa, cơm nước xong, khi miệng vẫn còn ngậm tăm, anh Thắng đã quay sang giục mọi người:
- Chuẩn bị kéo đi, giã lặng rồi.
Trưa nay sóng không mạnh lắm nhưng gió nhiều, loay hoay mãi Tiệp mới móc được vào cột cờ phao, đứng bên cạnh là Hiếu, người sẽ giật lấy đầu cột cờ kéo lên tàu sau khi Tiệp đã kéo vào sát mạn tàu. Nghe ra thì có vẻ nhẹ nhàng nhưng chứng kiến cái cảnh gió và sóng đua nhau xô nghiêng ngả con tàu, đầu tàu nâng lên hạ xuống như rang lạc, ngọn sào gắn phao cứ quay vòng vòng như cù thì phải khéo léo và kinh nghiệm lắm mới giật được phao mà lôi lên. Đô và Sơn đang đứng sẵn bên cạnh để lôi dây tời buộc vào máy kéo tời gắn ngay trên boong phía gần mũi tàu, để buộc được dây tời vào máy kéo thì phải vừa nhanh, vừa khỏe và vừa khéo, nếu không hoặc là tuột dây tời rơi xuống biển hoặc là bị máy kéo cả tời, cả tay vào vòng quấn thì thật tai hại và đen đủi lắm. Tường và Quế đã xuống hầm lưới, nhiệm vụ của hai người này là xếp lưới và dây tời đúng lớp, đúng vòng, không được để rối lưới với tời nếu không lần thả tiếp theo sẽ vất vả gấp trăm lần vì phải gỡ lưới, thứ nữa nếu nhiều cá mà đội trên boong gỡ không kịp thì người dưới hầm sẽ gỡ cùng vừa không để mất cá vừa không bị rối lưới. Tất cả đã vào vị trí, máy cảo tời đã quay, mẻ lưới mở hàng chứa đựng biết bao hy vọng đang dần dần được kéo lên từ đáy biển.
Dây tời lượn qua con quay bên thành tàu trước khi lăn vào bánh máy kéo đang quay chậm rãi. Những mét lưới đầu tiên từ từ đi lên từ sâu lòng biển cả, nhưng chưa thấy hình hài sản vật nào, rồi mọi người bỗng ồ lên khi xuất hiện cặp cá dưa vàng, cuộn tròn quấn chặt lấy mảng lưới chỗ chúng mắc phải. Bắt đầu xuất hiện cá lưỡng, loại cá có giá trị kinh tế cao vì được xuất khẩu sang Trung Quốc, đây là loại cá chủ điểm cho vụ đánh bắt từ tháng ba đến tháng bảy. Loại cá này nhìn khá bắt mắt, toàn thân trên là màu hồng phấn, bụng màu trắng hồng, vây và đuôi có màu vàng nhạt, nhiều thịt, không có xương răm, con to nhất cũng bằng bàn tay người trưởng thành. Loại cá này thường hình thành đàn lớn cả triệu con bắt nguồn từ các đàn nhỏ, thời điểm này mới đầu mùa nên các đàn cá lưỡng vẫn còn phân tán chưa hợp thành đàn lớn. Dưới ánh nắng cá lưỡng nhìn lấp lánh hồng hào, từng con nằm im lặng dưới sàn tàu cùng với các loài hải sản khác. 
Đã hai tiếng trôi qua, tôi đứng bên cạnh anh Thắng trong buồng lái thấy chỗ cá anh em gỡ ra nằm trên mặt boong tàu có vẻ hơi ít trong khi cả trăm mét lưới đã được kéo lên, tôi băn khoăn:
- Có vẻ hơi ít anh Thắng nhỉ?
- Lưới còn nhiều mà, đừng sốt ruột. Nay mới đầu vụ, cá lưỡng và cá hố chưa về nhiều, một hai tháng nữa là gỡ mỏi tay, có lần anh em gỡ hơn mười tiếng mới xong mẻ lưới. Mệt thì mệt thật nhưng thấy cá nhiều, lại là cá có giá trị cao nên anh em hăng say lắm. 
Trên bộ đàm các chủ tàu đang thông báo kết quả, hầu như các tàu đều cùng cảnh “hiếm muộn”, nhưng chả thấy ai than vãn gì chỉ nói có bao nhiêu cá, bao nhiêu cua, rồi động viên nhau và bàn về việc tìm địa điểm mới, quay qua nói đến chuyện nhà cửa, chuyện giá cả, chuyện gặp tàu câu, giã cào của nước ngoài hay tàu của các tỉnh khác. Tôi nằm nghe lỏm được nhiều câu chuyện thú vị lắm, thi thoảng câu chuyện của các anh bị cắt ngang vì bị sóng radio của tàu nước ngoài chèn, nghe xì xà xì xồ chả hiểu gì. 
Mẻ lưới đầu tiên được tám khay cá lưỡng, hai khay cá hố, hai khay cá mú, bốn khay cá dưa, hơn mười cân cua còn lại sáu khay cá chợ, gọi là cá chợ nghĩa là cá tạp nham, các loại cá rẻ như cá nục, cá phèn chỉ, cá đầu búa... bán cho người đi bán lẻ ở chợ. 
- Thế là ổn rồi, mẻ sau sẽ nhiều hơn. Mấy ông kia cũng thế, hơn nhau chả mấy.
- Thả lưới luôn hả anh, em thấy mọi người mệt rã ra rồi.
- Anh em quen rồi, làm chai nước là tỉnh lại ngay, cơm nước xong tha hồ ngủ nghỉ. Đi lên bốn hải lí nữa mới thả, chuẩn bị vào vùng khai thác chung rồi, tha hồ vui. 
- Vùng đó chắc nhiều tàu lắm hả anh? Có gặp tàu của nước ngoài không anh?
- Chắc chắn rồi, tàu tây, ta, to, nhỏ gì cũng có, nhưng chủ yếu vùng khai thác chung này phần lớn là các tàu khai thác hải sản của ta và tàu của ngư dân Trung Quốc. Ngư dân của cả hai nước trong quá trình khai thác luôn luôn phải tuân thủ theo Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ thoả hiệp ký ngày 25 tháng 12 năm 2000.
Có lẽ điều anh Thắng nói cũng là những điều cơ bản nhất về luật trên biển mà những người ngư dân như anh đều phải biết và hiểu rất rõ để thuận tiện cho công việc của mình.
Anh em vào tắm giặt, Lâm vào nấu cơm, chỉ còn chú Vịnh, Tường và Hiếu vẫn ngồi ở ngoài boong tàu chờ đến điểm để thả lưới. Anh Thắng tăng ga, bẻ lái hướng tàu về phía đông bắc. Tàu lướt trên đầu ngọn sóng, gió thổi dào dào vào trong ca bin, sóng đập vào mũi tàu tung bọt trắng, nước bắn cả lên boong, ánh mặt trời tô hồng mặt biển, xa xa khoảng hai hải lí phía mạn trái là hai tàu 35 và 65, phía mạn phải là 11 và 22 cũng xuất phát cùng lúc đến điểm tập kết như đã thống nhất với nhau trên bộ đàm từ chiều.
Thả lưới xong thì cũng hơn tám giờ tối, tôi mệt nên nằm thiếp đi từ lúc nào không biết, tỉnh dậy thì lưới thả gần xong, tôi lại lần mò lên phía buồng lái, nhìn qua cửa kính thấy lạ quá, sáng quá và nhiều những vùng sáng lớn bủa vây xung quanh, trông như những rạp hát di động trên mặt biển vậy, đó là tàu câu, những chiếc tàu câu cả trăm, cả nghìn CV với hàng trăm bóng đèn cao áp, nói không ngoa rằng vùng biển này đã trở thành một thành phố nổi, sầm uất, đông đúc và rất sáng. Sáng đến nỗi cách nhau gần hai hải lí mà tôi vẫn có thể nhìn thấy người đi lại trên đó. Đa phần là tàu của các địa phương trong nước mình từ Quảng Ninh, Hải Phòng đến Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, xa hơn cách khoảng vài chục lí là tàu hàng nước ngoài chỉ là đốm sáng nhỏ như đèn pin đi ở vùng hải phận quốc tế, trong này là vùng khai thác chung Vịnh Bắc Bộ, cách khoảng bảy, tám hải lí về phía Đông Bắc có vài tàu câu và tàu giã cào của ngư dân Trung Quốc, xa vậy nhưng vẫn thấy là một quầng sáng lớn thì đủ biết tàu của họ lớn cỡ nào. Đội tàu anh Thắng cũng đã thả lưới xong cả, cơm nước xong thì mọi người lại “ôm bộ đàm” bàn công việc, mẻ này sẽ để lưới trôi qua đêm đến ba, bốn giờ sáng mới kéo nên anh em sẽ có nhiều thời gian để nghỉ ngơi hơn. Tàu thả neo, đêm trên biển cảm giác thật khác, gió thổi dàn dạt không ngừng, sóng khi cao khi thấp, thuyền như con lật đật đong đưa theo sóng, không gian vô định, vô lượng mênh mông, thăm thẳm. Nếu đằng trước tàu là thành phố nổi thì đằng sau tàu là một vùng quê yên ả, thanh bình và mịt mờ tối. Màn đêm bủa vây, bao quanh và đặc quánh, nước biển đồng lõa với màn đêm trở thành một màu tối đen đầy bí hiểm và đáng sợ. Sóng biển vẫn vỗ đều đặn vào mạn tàu, hôm nay sóng không lớn nhưng đủ để cho chiếc tàu bốn trăm CV trở nên nhỏ nhoi chòng chành, lắc lư không ngừng. Đang say sưa nghe anh Thắng nói chuyện về những sân khấu nổi ngoài kia thì máy Icom có tín hiệu, phía đầu bên kia là cán bộ của đồn biên phòng Hoằng Trường hỏi thăm về tình hình trên biển ngày hôm nay, anh Thắng trả lời là bình thường không có vấn đề gì nổi cộm, ngoài việc đội của anh đã khiến một tàu cá nước ngoài phải quay đầu khi tàu này có ý định vượt qua tọa độ đi vào vùng biển đặc quyền của nước ta. Anh báo cáo cả chuyện nhà báo bị say sóng ngất ngây trên tàu ba ngày nay không ăn uống được gì nhưng tinh thần vẫn ổn, báo cáo thêm về tình hình chung của anh em trên tàu và các tàu trong đội đều tốt, khoảng gần hai phút cho cuộc làm việc giữa đội phó đội dân quân biển và cán bộ đồn biên phòng. Tiện đó, tôi vịn vào hỏi luôn những vụ va chạm, đụng độ trên biển với tàu nước ngoài kiểu như chiều nay.
- Mấy vụ kiểu này có hay gặp không anh?
- Cũng ít, năm đôi ba lần, nói chung đa phần dân họ cũng lành tính như dân mình, chỉ trừ vài trường hợp cá biệt vì ham chạy theo luồng cá, hoặc chạy theo lưới trôi thôi chứ cứ bình thường thì chả có việc gì, tàu mình cũng có lúc như thế. 
- Vụ anh nhớ nhất là như thế nào ạ?
- Vụ ấy cũng khá lâu rồi, cách đây khoảng ba, bốn năm gì đó, không phải tàu anh mà một tàu trong đội đụng độ với hai tàu của họ, bị họ ép vỡ một bên mạn, may đội đến kịp, họ thấy mình đông nên thôi không đuổi. Chiều nay may họ đi lẻ, chứ họ đi theo đội ba, bốn tàu cùng lúc thì mình cũng khó, dù tàu mình đông hơn nhưng bé, bằng một phần năm tàu của họ, máy tàu của họ lại ngon hơn, lớn hơn, gặp những trường hợp như thế thì “chuồn là thượng sách”, có khi còn phải chấp nhận mất lưới hoặc quay lại tìm sau, để chạy cho nhanh, chứ để người ta ép cho thì vỡ tàu, thiệt cả người cả của, chả dại gì. 
Nghe anh kể chuyện sống chết trên biển mà giọng nhẹ như không lại còn pha chút bông đùa đủ để thấy tư tưởng của vị đội phó này vững như thế nào, và có lẽ cũng chạm trán nhiều lần rồi nên thành ra quen không còn cảm giác căng cứng nữa. Nằm nghe anh kể chuyện về mấy vụ va quệt trên biển với tàu nước ngoài, với tàu các tỉnh bạn, rồi mấy vụ mất lưới, đi tìm lưới toát mồ hôi, phao còn sống thì đỡ, phao mà hết điện hoặc sặc nước chết thì đúng là mò kim đáy bể... tôi thiếp đi lúc nào không hay, khi tỉnh dậy vì tiếng máy nổ dưới hầm tàu làm giật mình thì thấy anh em đang lục đục mặc quần áo, nhìn đồng hồ mới ba giờ sáng, có vị vẫn còn ngáp ngắn, ngáp dài như muốn ngủ thêm.
- Đô với Tường ra kéo phao đi. 
Ngoài trời đang mưa nặng hạt, sóng hơi cao chắc khoảng hơn một mét, gió mạnh hơn hồi chiều hôm qua đôi chút, mưa có vẻ dày hạt, điều này sẽ làm cho anh em vất vả hơn, nhưng như anh Thắng nói là anh em cũng quen rồi, mới thế này chưa xi nhê gì. Tháng bảy năm ngoái sóng đánh tạt qua nóc tàu, gió ầm ầm, anh em vẫn kéo và thả lưới bình thường, bởi biển càng động thì càng có nhiều cá, mà đặc biệt là cá lưỡng và cá hố rất thích đi lúc biển động. Vì thế mới có chuyện, gỡ cá mỏi tay hơn mười tiếng chưa hết một mẻ lưới, vụ đấy trúng quả, nhưng ham vậy thôi chứ anh em cũng biết nguy hiểm và nhiều khi cái giá phải trả đắt lắm chứ chẳng chơi.
Mẻ này đến lượt Quế và Tiệp đứng dưới hầm xếp lưới, những người còn lại đứng trên gỡ cá. Mưa, gió, sóng biển lớn làm cho tàu rung lắc mạnh hơn, boong tàu cũng trơn hơn, mưa phả vào mặt vừa rát vừa khó nhìn. Chú Vịnh kinh nghiệm nhiều năm nhưng vì tuổi tác đã cao nên cũng không chịu được lâu, thi thoảng lại bị trượt chân loạng choạng, không giống như những anh ngư biển trẻ, thế đứng hiên ngang, chỉ khổ một nỗi, các chú tay đang nhặt cá, bùn cát bôi hết cả lên mặt lên mũi nhìn đến buồn cười, đến đáng thương. May mưa không lâu, khoảng một tiếng sau thì tạnh hẳn, nhưng gió và sóng vẫn lớn. Chỉ riêng sức bỏ ra để đứng vững chống chọi lại với sức gió và sức sóng thôi cũng tốn biết bao nhiêu rồi, chưa kể luôn tay gỡ cá, xếp lưới, thu tời chả bở hơi tai ra ấy chứ, thế mà mọi người vẫn cười nói vui vẻ. Mẻ này lúc đầu nhiều cá nục và cá phèn chỉ, cá lanh, đến khi hết mưa mới có nhiều cá dưa, cá hố và cá lưỡng. Cá cứ được ném bình bịch xuống sàn tàu bởi những thân hình lực lưỡng như đang gom biển cả vào đôi bàn tay và thu về những thành quả được đánh đổi bằng mồ hôi, công sức và ý chí. 
Kéo lưới xong tàu lại tiến về phía trước, một vùng khai thác chung rộng lớn, cơ hội chia đều cho tất cả, có một luật bất thành văn mà cả tàu thuyền của ta lẫn tàu thuyền nước ngoài đều phải thuộc nằm lòng và phải tuân thủ nghiêm túc đó là mỗi tàu sẽ có vùng nước hai hải lí xung quanh tàu, các tàu khác không thả lưới vào vùng đó, tàu nào đến trước tàu đó thả lưới trước, tàu đến sau tự tìm địa điểm khác, muốn đi qua vùng nước đó phải xin qua điện đàm hoặc chạy vòng về phía sau tàu. Trong lúc anh em xếp các khay cá vào hầm băng, thuyền trưởng Thắng tăng tốc phi nước đại. Con tàu lao về phía trước nhanh như bay trên đầu những ngọn sóng, khoảng hai hải lí thì đến điểm tập kết, đội tàu của anh cũng ở xung quanh đây trong vòng bán kính sáu hải lí, nghĩa là phải luôn đảm bảo trong tầm bắt sóng của bộ đàm để tiện liên lạc. 
Vẫn là cái ánh mắt đăm đăm và vẻ mặt nghiêm nghị ấy, anh Thắng vừa lái vừa thao thao nói cho tôi nghe như đang đứng trên bục trong một hội nghị biểu dương điển hình nào đó. Vùng biển đánh bắt chung hay dân mình vẫn quen gọi là Vịnh Bắc Bộ, trải dài suốt từ Quảng Ninh, Hải Phòng xuống đến tận Quảng Bình, Quảng Trị. Sau khi đã trừ ra hai trăm kilômét tính từ bờ biển là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, mọi hoạt động liên quan đến vùng biển trong phạm vi hai trăm kilômét đó của con người hay phương tiện máy móc của nước ngoài đều phải được sự cho phép của nhà nước ta mới được phép hoạt động. Ngoài vùng hai trăm kilômét là đến vùng khai thác chung rộng khoảng ba mươi nghìn kilômét vuông, thực sự là một vùng biển rộng lớn nhiều tiềm năng nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Từ năm 2004 tàu cá nước ta từ Bắc chí Nam bắt đầu hình thành các đội tàu, mỗi đội có khoảng từ năm đến mười lăm tàu, mỗi thuyền trưởng là thành viên của đội dân quân biển, tạo thành một tập thể có đủ sức mạnh cạnh tranh với các tàu cá nước ngoài, việc này đã mang lại hiệu quả thiết thực, tình trạng bị chèn ép hay bị xua đuổi bởi tàu nước ngoài giảm đi rõ rệt, từ đó sản lượng đánh bắt mỗi chuyến đi của các tổ, các đội đều tăng lên trông thấy. Và đó cũng là lí do cho sự tồn tại và phát triển của các đội dân quân trên biển, bên cạnh việc tự bảo vệ nhau, các đội, các tổ còn nhận được sự giúp đỡ từ phía các cơ quan chức năng như biên phòng, kiểm ngư hay cảnh sát biển thông qua hệ thống Icom có tần số nội bộ được bảo mật hoàn toàn. Chính điều này đã tạo sự tin tưởng, yên tâm hơn cho bà con ngư dân trong mỗi chuyến vươn khơi bám biển vừa khai thác, đánh bắt hải sản phát triển kinh tế, vừa như những người lính không quân phục làm tròn sứ mệnh bảo vệ biên giới, lãnh hải của tổ quốc.
Chả mấy chốc mà đến điểm tập kết, anh Thắng cài tay lái, hạ tay ga rồi đứng ra phía cửa ngay bên cạnh mạn tàu bên phải, nhìn chăm chăm xuống mặt nước, rồi lại ngửa mặt xem gió, kỳ lạ, có cả cái tài ngửa mặt xem gió thì đúng là cao thủ trong nghề rồi, thật ra là để xem dòng chảy và hướng gió rồi lựa thế để thả lưới cho đúng dòng hải lưu chứ nào có cái gì cao siêu, phức tạp đâu, anh vừa nói vừa cười, nụ cười thật hiền và gần gũi. 
- Đi thêm lên vài hải lí nữa, nước này chưa thả được đâu...
Anh nói qua bộ đàm với “các đồng nghiệp”, trưởng các tàu đồng ý, anh lại tăng ga cho tàu phi nước đại, đôi bàn tay vẫn nắm chắc bánh lái, đôi mắt vẫn giữ cái nhìn như dán vào mặt biển để dò vào lòng biển tìm từng luồng cá đang tạo đàn dưới độ sâu bảy tám mươi mét nước thăm thẳm xanh. Mặt trời đang lơ lửng trên đầu, tỏa nắng xuống sáng bừng mặt biển, một màu xanh bao la và gió thổi lồng lộng, từng đàn cá chích, cá chuồn bơi theo tàu tung tăng, ánh nắng lấp lánh trên từng gợn sóng phía xa xa trước mũi tàu như tô điểm thêm cho vẻ đẹp kỳ vĩ và mênh mông của mặt biển. Con tàu vẫn miệt mài lao về phía lấp lánh và huy hoàng ấy với niềm tin về một cuộc sống tốt đẹp hơn, như hoa hướng dương luôn rạng rỡ hướng về phía mặt trời...
            

N.H


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 52
 Hôm nay: 5114
 Tổng số truy cập: 13461171
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa