Hùng thiêng sông núi Lam Sơn (bút ký) - Lê Xuân Giang
Tôi cảm nhận được sự linh thiêng ngay lần đầu tiên đặt chân lên mảnh đất Lam Sơn cách đây đã trên nửa thế kỷ, khi trường cấp III Thọ Xuân tổ chức cho khóa học sinh cuối cấp chúng tôi đi tham quan khu di tích Lam Kinh trước ngày ra trường. Háo hức lắm. Đi bộ trên chục cây số mới đến nơi mà chẳng thấy mệt là gì.
Sau khi thắp hương kính cáo Lê Thái Tổ tại đền thờ Ngài ở xã Xuân Lam, chúng tôi kéo nhau vào khu di tích Lam Kinh. Tại đây lần đầu tiên chúng tôi được biết, Lam Kinh được xây dựng trên một gò đồi có hình giống chữ VƯƠNG viết theo Hán tự; trong đó con đường chạy thẳng trên giữa lưng đồi theo trục Nam - Bắc, là nét đứng của chữ VƯƠNG; hai bên có 3 gò đất chạy cắt vuông góc với nét đứng, trồi lên giữa những thung lũng, là 3 nét ngang của chữ VƯƠNG. Một chữ VƯƠNG khổng lồ do đất trời tạo ra, đúng như Sử thần Ngô Sỹ Liên khẳng định “Từ khi có đất trời này thì đã có núi sông này...”.
Sau này, khi được đọc bản dịch bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn, có đoạn: “Vua họ Lê, tên là Lợi, tằng tổ của vua húy là Hối, người phủ Thanh Hóa. Một ngày kia đi chơi ở Lam Sơn thấy có đàn chim bay lượn ở chân núi Lam như vẻ đông người tụ họp, cho rằng chỗ này là đất tốt liền dời nhà đến đây, được 3 năm thành sản nghiệp...” tôi càng vững tin, Lam Sơn là vùng đất thiêng, bởi có thiêng thì đàn chim mới tìm về bay lượn. Tôi còn tin rằng, tằng tổ của vua tên húy là Hối là một người rất giỏi về địa lý.
Theo TS. Phạm Văn Tuấn ở Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thanh Hóa thì: Núi Lam, Kẻ Cham, làng Cham - quê hương Lê Lợi vốn là một làng Việt cổ xuất hiện từ rất sớm. Người dân ở đây đã lấy đặc điểm tự nhiên nổi bật của vùng đất này để đặt tên làng. ở đây có núi Dầu (còn gọi là núi Lam) xưa kia có rất nhiều cây chàm dùng để nhuộm vải vóc, quần áo thành màu xanh lam, có lẽ vì đặc điểm ấy mà người dân vùng này đã đặt tên là núi Lam chăng?...
Sách Đại Việt sử ký toàn thư phần chép về Lê Thái Tổ Cao Hoàng đế ghi: “Vua họ Lê, húy là Lợi, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa”. Điều đó chứng tỏ Kẻ Cham, nơi cụ Lê Hối dời nhà đến ở là một làng thuộc hương Lam Sơn.
Tại Hội thề Lũng Nhai, Lê Lợi còn tự xưng là “Phụ đạo lộ Khả Lam”. Theo cách giải thích của GS. Hoàng Xuân Hãn thì Lộ là một thành phần của nước. Khi đó Lê Lợi tuy chưa xưng vương, nhưng tự coi là trấn thủ một Lộ. Như vậy, dưới thời Lê Lợi vùng đất Lộ Khả Lam như trong các tài liệu còn lưu lại không phải là một đơn vị hành chính mà là một danh hiệu tự xưng của Lê Lợi để chỉ một vùng đất rộng lớn của một hào trưởng đất Lam Sơn.
Từ Kẻ Cham đến hương Lam Sơn rồi đến Lộ Khả Lam là cả một chặng đường dài, chứng tỏ vùng đất này có lịch sử tồn tại và phát triển lâu đời.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, căn cứ của nghĩa quân Lam Sơn không chỉ ở hương Lam Sơn theo đơn vị hành chính mà bao gồm cả những dãy núi trùng điệp, từ phía Tây Thanh Hóa đổ xuống miền thượng du rồi lan đến tận thị trấn Thọ Xuân và xã Xuân Lập ngày nay. Xa xa giáp biên giới Việt Lào là những dãy núi cao trên 1000 mét. ở đây, miền thượng du Thanh Hóa, núi cao với rừng già bát ngát một màu lam chàm của dãy Chí Linh.
Tiếp theo rừng già nhiều tầng, nhiều lớp từ núi cao đổ xuống là loại rừng thưa trên các vùng đồi và thung lũng. Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng cho rằng, “Vùng địa Văn hóa của Lê Lợi là vùng văn hóa núi và thung lũng” là dựa vào cấu tạo địa chất, địa hình của một vùng rộng lớn trên đây.
Nhưng Lam Sơn không chỉ có núi mà còn có nhiều khe suối len lỏi trong rừng già làm cho đất đai màu mỡ rất thuận lợi cho việc trồng ngô lúa và cung cấp lâm thổ sản nuôi sống con người. Đây chính là thế mạnh của núi rừng phía Tây Thanh Hóa mà Lê Lợi đã khai thác khi chọn nơi đây làm căn cứ của nghĩa quân.
Sông ở miền Tây Thanh Hóa cũng rất đặc biệt. Sông Chu là dòng sông lớn từ Lào đổ vào Thanh Hóa, chỗ Xuân Liên, giữa hai dãy núi Bù Đồn - Bù Do của huyện Thường Xuân, chảy qua Bái Thượng, len giữa Mục Sơn và Du Sơn uốn vòng trước làng Cham (Lam Kinh ngày nay), qua huyện lỵ Thọ Xuân, Thiệu Hóa, hợp lưu với sông Mã tại ngã ba Vồm trước khi đổ ra biển Đông.
Bên phải sông Chu có sông Đạt, sông Đằng, bên trái có sông Khao chảy qua Bát Mọt, Yên Nhân, Xuân Khao (huyện Thường Xuân) và sông Âm có khe suối len lỏi vùng đồi rừng qua các xã Yên Khương, Tân Phúc, Quang Hiến, Trí Năng, Giao An (huyện Lang Chánh), Phùng Giáo, Nguyệt ấn (huyện Ngọc Lặc). Cả 4 con sông trên đều nhập vào sông Chu ở phía trên Lam Sơn.
Phần lớn khe suối của sông Khao, sông Âm len lỏi từ Pù Rinh chảy qua Thường Xuân, Lang Chánh, Ngọc Lặc dẫn nước về sông Chu phía trên Lam Sơn đã tạo nên hệ thống giao thông đường thủy rất quan trọng của nghĩa quân từ căn cứ Lam Sơn lên căn cứ Chí Linh.
Núi ở Lam Sơn cũng thật kỳ thú. Núi Dầu còn gọi là Du Sơn hay núi Chàm nằm chếch về phía Tây, cao hơn 60 mét. Cạnh đó là núi đá vôi Như áng cao vượt lên, trên đỉnh có một khoảng đất nhỏ bằng phẳng, cạnh có một giếng nước quanh năm trong suốt. Tương truyền đó là nơi họp bàn của “Bộ tham mưu nghĩa quân”. Đối diện với núi Dầu, bên kia sông Chu là núi Mục cao 170 mét, tương truyền trên đỉnh núi Mục là vọng gác của nghĩa quân Lam Sơn.
Riêng thành điện Lam Kinh, phía Bắc dựa vào núi Dầu (Du Sơn), mặt Nam nhìn ra sông Chu khoảng 900 mét là núi Chúa (Chủ Sơn) làm tiền án, bên tả là dãy núi Phú Lâm và núi Ngọc Giăng Đèn uốn lượn thành hình cánh cung che chắn phía Đông, bên phải là rặng núi Hướng và núi Hàm Rồng cũng uốn thành hình cánh cung che chắn phía Tây. Về mặt quân sự, hình sông thế núi như thế “Tiến có thể công, thoái có thể lui” rất thuận tiện cho việc xây dựng căn cứ địa cho một cuộc kháng chiến.
Từ Lam Sơn nghĩa quân theo sông Chu và đường bộ xuống đồng bằng Thanh Hóa phì nhiêu và cũng từ Lam Sơn nghĩa quân theo đường thủy, đường rừng rút quân đến tận biên giới Việt Lào. Từ Lam Sơn nghĩa quân có thể đi qua Thường Xuân và phía Tây Nghệ An tiến quân tới tận Tân Bình, Thuận Hóa, cũng từ Lam Sơn nghĩa quân vượt sông Mã đánh thành Tây Giai, đi Thiên Quan ra đến Đông Quan và các tỉnh phía Bắc.
Nói khá kỹ về cấu trúc địa hình miền Tây Thanh Hóa, căn cứ địa của Nghĩa quân Lam Sơn những năm đầu khởi nghĩa là để xác định mối quan hệ tương tác giữa đất và người trong cuộc khởi nghĩa trên mảnh đất Lam Sơn do Lê Lợi đứng đầu. Học giả Đào Duy Anh, trong cuốn Việt Nam Văn hóa sử cương chẳng đã từng lập luận rằng “Muốn nghiên cứu văn hóa một dân tộc, trước hết phải xét xem dân tộc ấy sinh trưởng ở trong những điều kiện địa lý thế nào”.
Chắc chắn, trong công trình Lịch triều hiến chương loại chí nhà sử học uyên bác Phan Huy Chú khi viết về đất và người Thanh Hóa: “Vẻ non sông tốt tươi nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại nảy ra nhiều văn nho. Đến những sản vật quý cũng khác mọi nơi. Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên sinh ra những bậc phi thường, vượng khí chung đúc, xứng đáng đứng đầu cả nước”; không thể không nghĩ đến hình sông thế núi ở vùng đất Lam Sơn, quê hương của Anh hùng Giải phóng dân tộc Lê Lợi.
Trong bài “Lê Lợi trong bối cảnh địa - văn hóa xứ Thanh Đại Việt cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV”, Giáo sư Trần Quốc Vượng viết: “Sông Mã và sông Chu (sông Lương) vẫn phải luồn theo những hành lang hẹp và sâu, đào qua các đá granit, foophirit, roolit cứng rắn...” và từ đó ông nhận định “Nhân cách Lê Lợi, trước hết là nhân cách người miền núi, chất phác và cứng rắn”... Nó khác với nhân cách Bố Cái (Ngô Quyền) - là nhân cách trung du đồng bằng hóa, nhân cách Lý Thường Kiệt - là nhân cách Thăng Long, nhân cách Trần Hưng Đạo - là nhân cách Hải Đông...” cũng căn cứ lập luận về văn hóa của học giả Đào Duy Anh đã nói ở trên...
Cũng trên nền địa lý tự nhiên: núi cao, rừng già và thung lũng với những khe suối chằng chịt len lỏi đổ nước ra sông Chu, nên hai bên bờ sông này phần nhiều là quê hương của các tướng lĩnh nghĩa quân Lam Sơn. Mỗi một tướng lĩnh lại kéo theo một số anh em, bà con, trai tráng họ hàng trong thôn ấp đi theo. Sau khi gia nhập nghĩa quân, họ vẫn đóng tại bản quán vừa luyện binh, vừa làm ruộng, thực hiện chủ trương binh lương tại chỗ, khi có lệnh của chủ soái mới tập trung đi đánh trận. Nếu không có địa hình rừng núi xen những gò đồi và thung lũng bên bờ những con sông từ Lam Sơn đến Chí Linh thì làm sao Nghĩa quân Lam Sơn có được cách tổ chức lực lượng độc đáo như vậy.
Về vùng đất Lam Sơn lâu nay vẫn truyền tụng một truyền thuyết cho rằng, nhà họ Lê được một nhân vật kỳ bí cho biết một huyệt đất phát vương ở động Chiêu Nghi thuộc vùng Lam Sơn. Lê Lợi sau đó đã quyết định đem di cốt của thân phụ mình chôn ở đó, nhờ vậy mà sau này mới phát tích trở thành đế vương. Nhưng các sách sử chính thống như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục hoàn toàn không chép gì về chuyện phong thủy, đất phát đế vương này.
Từ đó khẳng định, chính mảnh đất Lam sơn với sông ngòi, suối khe chằng chịt, núi non kỳ thú đã hun đúc nên bậc đế vương Lê Lợi, người khởi đầu đế nghiệp nhà Lê. Cũng nhờ vào hùng thiêng sông núi của đất Lam Sơn mà triều đại do Lê Lợi sáng lập là triều đại tồn tại lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Và chính lãnh tụ Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, với những chiến tích lừng lẫy của 10 năm đánh quân Minh, đã biến vùng đất Lam Sơn trở thành vùng đất hùng thiêng trong lòng bao thế hệ người Việt Nam.
*
Ngày nay địa danh Lam Sơn thuộc địa phận xã Xuân Lam và thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, quê hương và cũng là vùng đất Anh hùng Giải phóng dân tộc Lê Lợi phát động khởi nghĩa năm xưa, đang đứng trước vận hội lớn. Có được vận hội lớn này, trước hết phải kể đến vai trò của khu công - nông nghiệp Mía đường Lam Sơn, với sự xuất hiện của nhà máy đường Lam Sơn do Anh hùng Lao động Lê Văn Tam làm giám đốc. Mới đó mà đã trên 30 năm. Trong khoảng thời gian ấy, giám đốc Lê Văn Tam và ban lãnh đạo nhà máy đường Lam Sơn đã biến những đồi núi khô cằn ở vùng Lam Sơn trở thành vùng mía đường trù phú vào diện bậc nhất của cả nước.
Tôi được biết, giám đốc Lê Văn Tam và các cộng sự, trong vòng 10 năm đầu (từ 1988 đến 1998) đã đưa vùng mía của nhà máy phủ khắp các huyện miền Tây Thanh Hóa, từ Lam Sơn đến Chí Linh (Lang Chánh), vùng đất in dấu chân của nghĩa quân Lam Sơn 600 năm trước. Điều đó chẳng phải ông đã nhìn thấy hình sông thế núi ở đây ẩn chứa tiềm năng to lớn cho việc phát triển vùng nguyên liệu mía. Mà ai cũng biết, vùng nguyên liệu mía quyết định đến sự sống còn đối với một nhà máy đường đến như thế nào!
Nhưng thành tựu mà giám đốc Lê Văn Tam và các cộng sự của mình làm được không chỉ là dựa vào đất đai mà cái chính là dựa vào lòng dân. Đã có lần ông tâm sự, ngày đầu mới lên Lam Sơn làm giám đốc, biết nhà máy chỉ chạy được 10% công suất vì thiếu nguyên liệu, nhưng việc đầu tiên ông làm không phải là lo trồng mía mà là lo lương thực chống đói cho hàng ngàn hộ nông dân vùng mía. Có no người dân mới trồng mía cho nhà máy được.
Sau này, khi nhà máy ăn nên làm ra, nhà máy đường Lam Sơn thực hiện nhiều chính sách như: xây dựng trường học, làm đường, phụng dưỡng các mẹ Việt Nam Anh hùng, thành lập quỹ khuyến học cho con em vùng mía v.v... Có thể nói cây mía Lam Sơn đã kéo theo cuộc tái sinh của hàng ngàn hộ dân vùng trung du và miền núi phía Tây Thanh Hóa, từ chỗ thiếu đói trở nên giàu có. Tất cả là nhờ “Đường ông Tam” mà có.
Nhưng từ cây mía, ông Tam không chỉ làm ra đường, mà còn làm ra điện, ra cồn công nghiệp, ra rượu, ra phân vi sinh, bánh kẹo... Đến khi mía đường ở trong nước có chiều hướng bão hòa, công ty mía đường Lam Sơn lại chuyển sang làm nông nghiệp công nghệ cao. Một khu nông nghiệp công nghệ cao nằm ngay cạnh đường mòn Hồ Chí Minh với hàng chục giống cây ăn quả được hình thành. Lúc này người dân Thanh Hóa lại nô nức rủ nhau tìm mua dưa vàng ông Tam, cam ông Tam, gạo ông Tam...
Tưởng xoay như thế đã là tuyệt đỉnh lắm rồi, đùng một cái, công ty mía đường Lam Sơn lại cho ra đời một sản phẩm du lịch mới. Đó là Công viên tre trúc Tam Thanh, rộng hàng trăm héc ta, cũng nằm bên đường Hồ Chí Minh, bên cạnh khu nông nghiệp công nghệ cao. Theo ông Lê Văn Tam cho biết, nơi đây là khu du lịch sinh thái và tâm linh đồng thời là nơi nghỉ dưỡng cho người cao tuổi. ở đây có đền thờ Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ, người vợ đầu đã từng theo Bình định vương Lê Lợi trong suốt 10 năm kháng chiến chống quân Minh, có tượng đài vua Lê Thái Tổ và các vị khai quốc công thần có mặt trong hội thề Lũng Nhai, có 2 con đường mang tên Thuận Thiên và Đại Nghĩa, có nơi vui chơi cho thiếu nhi và nơi nghỉ dưỡng cho người già.
Trên nền tảng khu công - nông nghiệp mía đường Lam Sơn và lợi thế về giao thông như có đường Hồ Chí Minh đi qua và có Cảng hàng không Thọ Xuân, (sau khi Cảng hàng không Thọ Xuân đưa vào khai thác đường bay dân dụng, khoảng cách đi lại giữa Thanh Hóa với các trung tâm kinh tế năng động của đất nước đã được rút ngắn), Chính quyền Thanh Hóa đã công bố đồ án quy hoạch khu công nghiệp Lam Sơn - Sao Vàng có tổng diện tích khoảng 537 héc ta, nằm trên địa phận 2 xã Xuân Phú, Xuân Thắng (huyện Thọ Xuân) và xã Thọ Sơn (huyện Triệu Sơn), được chia thành 4 khu vực chủ yếu, nhằm hình thành 4 cụm trong quá trình đầu tư, trong đó, mỗi cụm sẽ có 1 lô đặc biệt với diện tích trên 20 héc ta làm hạt nhân, xen kẽ là các lô có diện tích trung bình và nhỏ hơn.
Đây được xác định là khu công nghiệp hiện đại, đa ngành, sử dụng công nghệ cao, được đầu tư đồng bộ, thuận tiện, an toàn cho các nhà đầu tư và phát triển hài hòa với khu vực đô thị lân cận. Dự báo đến năm 2020, khu công nghiệp này sẽ tạo việc làm cho gần 30.000 lao động.
Cuối năm 2017, tuyến đường mới xây dựng nối Sân bay Thọ Xuân với Khu kinh tế Nghi Sơn, dài 65,91 km, đã được đưa vào sử dụng để kết nối hai vùng kinh tế động lực, hai lợi thế song song là Cảng hàng không Thọ Xuân và Cảng biển nước sâu Nghi Sơn thì Khu công nghiệp Lam Sơn - Sao Vàng càng có cơ hội phát triển.
Viết đến đây, tôi chợt nhớ, có lần ai đó đã nói: “Lam Sơn là trung tâm hình học của Thanh Hóa”. Tôi vội mang bản đồ Thanh Hóa ra xem, quả đúng thế thật. Lam Sơn là giao điểm của trục ngang từ Mường Lát, Quan Sơn đến Sầm Sơn và trục dọc chạy thẳng từ Bỉm Sơn đến Nghi Sơn. Nói đến trung tâm hình học là nói với nghĩa đen, nhưng ai dám chắc rằng cái trung tâm ấy không tiềm ẩn những yếu tố “địa lợi”, trong đó hùng thiêng sông núi Lam Sơn đang góp phần vào công cuộc cách mạng mới, vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế vừa có ý nghĩa về mặt quốc phòng, không chỉ của Thanh Hóa mà còn của cả nước.
Thanh Hóa, tháng 8 năm 2018
L.X.G