Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /     /   Về Pù Rinh nghe đại ngàn kể chuyện (ký sự) - Nguyễn Hải
Về Pù Rinh nghe đại ngàn kể chuyện (ký sự) - Nguyễn Hải

Trở về miền huyền sử Pù Rinh không khỏi bâng khuâng và khơi gợi trong tôi nhiều dòng cảm xúc về mảnh đất một thời là đại bản doanh, là chốn đi về của nghĩa quân Lam Sơn huyền thoại. Dãy Pù Rinh sừng sững cao như bức tường thành nằm ở phía tây nam huyện Lang Chánh. Với độ cao hơn một nghìn mét so với mực nước biển, có điểm cao tới 1.291m, là ngọn núi cao nhất theo địa hình đa dạng và phức tạp của huyện Lang Chánh. Phần lớn Pù Rinh vẫn còn được bao phủ những cánh rừng già nguyên sinh, những dòng thác ngày đêm ầm ào chảy, bản thân Pù Rinh cũng mang trong nó rất nhiều huyền bí, đặc biệt là những câu chuyện lịch sử của sáu trăm năm trước mà người ta mới khám phá ra được phần nào. Sáu trăm năm, bao lớp người, bao thế hệ đã đi qua miền huyền sử của Pù Rinh, đến hôm nay số người còn nhớ những câu chuyện về những năm tháng đầu gian khổ của cuộc khởi nghĩa không còn nhiều và rất nhiều câu chuyện đã dần chìm vào đá núi mây ngàn, để mỗi ngày cây, gió và thác kể bằng ngôn ngữ riêng của nó. Đó là một sự thật buồn, may thay những câu chuyện ý nghĩa nhất, đáng nhớ nhất vẫn còn trong tâm thức những người con của đất rừng Lang Chánh và may mắn hơn nữa những câu chuyện ấy gắn liền với từng bản, từng làng, từng con suối, con sông... trên mảnh đất này.
Con đường dẫn chúng tôi về với Giao Thiện, một xã nghèo của huyện Lang Chánh, hãy còn gồ ghề, gập ghềnh lăm lắm. Giao Thiện nguyên sơ, hòa vào rừng, tràn ngập thanh âm của miền cổ tích với suối róc rách, thác ầm ào, răng rắc, lao xao của rừng luồng, rừng keo... những ngôi nhà sàn thấp thoáng sau những hàng cây ăn quả, xoan đào, cau, dừa... đủ loại. Những ngôi nhà sàn trẻ, nghe có vẻ khó hiểu, thực chất đó là những ngôi nhà sàn có tuổi đời mới vài năm, cái lâu cũng chỉ mươi năm, còn những ngôi nhà sàn cao tuổi đã bị “săn” và bán hết rồi. Cái khác biệt của những ngôi nhà sàn này là mái tôn, họa tiết, hoa văn trên gỗ và chất liệu gỗ không còn được như xưa, còn về mặt thiết kế thì vẫn vậy ba gian thông, nhiều cửa sổ và cầu thang chín bậc lên sàn nhà. Người dân nơi đây vẫn cần cù, chăm chỉ loanh quanh với rừng, với ruộng và với những làn điệu mang màu sắc riêng của người Thái đen điển hình. Nói tiếng Kinh còn chưa sõi, trong giọng điệu vẫn pha chút lơ lớ khi giao tiếp với bên ngoài, còn khi trò chuyện với nhau vẫn “phát sóng ngắn” tức là vẫn dùng ngôn ngữ Thái của riêng họ. Đi dạo quanh bản Húng Hiên thi thoảng vẫn nghe thấy những câu hát í ơi vọng ra từ bậc cầu thang hay từ những ô cửa sổ của người đàn bà Thái nào đó, nghe có chút gì đó mơ hồ, điệu miên man buồn, đứt đoạn và lọt thỏm, tan nhanh vào cây, vào gió rừng nơi đại ngàn này. Có lẽ tôi là người may mắn hơn nhiều đồng nghiệp khi được ủy ban nhân dân xã Giao Thiện ưu ái cất cử trưởng ban văn hóa xã cùng đi tác nghiệp. Ông là Phạm Xuân Nội, năm mươi chín tuổi, đã hai mươi lăm năm làm cán bộ văn hóa xã, thuộc vào những người nhiều tuổi của bản Húng Hiên, đặc biệt là một trong số ít người đã được nghe, được kể và nhớ rõ những câu chuyện trong dân gian về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Điểm đến đầu tiên trong chuỗi di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của tôi bắt đầu từ một ngôi đền thờ vị chủ tướng mà sau này là vua Lê Thái Tổ. Đền Tên Púa, nói theo tiếng Kinh là đền Tên Vua, vừa được phục dựng lại năm ngoái, trước đây đền như một cái lán tạm, bà con dựng bằng phên nứa, lợp bằng lá cọ, lụp xụp lắm, bây giờ thì đỡ hơn rồi. Từ trung tâm xã Giao Thiện chạy xe máy khoảng năm kilômét là tới đền Tên Púa, con đường chạy từ đầu đến cuối xã là đường cấp phối, mưa xối, đất đá trên núi sạt lở tràn xuống đường, chưa kể những vũng ổ trâu, ổ voi do xe chở gỗ để lại, thật khó tưởng tượng được sức bền, ý chí sắt đá của người dân nơi đây. Ông Nội nói như thanh minh với tôi rằng vì cuộc sống cả thôi, với lại ngày nào cũng đi mọi người quen rồi, như thế này vẫn còn tốt hơn đường trong núi. Ngôi đền nhìn giống cái miếu hơn, vì diện tích khoảng hai mươi mét vuông, tính cả khu sân trước, sân sau thì khoảng hơn ba trăm mét vuông, ngôi đền nằm trên một khoảng đất vuông được xếp cao lên bằng những hòn đá cuội to nhỏ đủ các kích cỡ, mười hai cây cột gỗ có đường kính thân khoảng ba mươi phân được dựng xung quanh, bốn bên ghép bằng ván gỗ tạp, mái lợp bằng ngói đỏ, bên trong cũng khá sơ sài chỉ có cái tắc tải sơn son thiếp vàng để bát nhang và vài thứ trang bày đơn giản. Phía tây ngôi đền có cái giếng nước nhỏ, thành giếng được xếp bằng đá cuội đã xanh màu rêu, xung quanh cỏ dại mọc nham nhở, nước giếng rất trong và theo như lời ông Nội là chưa bao giờ giếng này hết nước, cái giếng này, bãi đất này là chỗ đoàn quân của Lê Lợi dừng chân nghỉ sau một đêm chạy giặc. Trước mặt ngôi đền là cánh đồng Na Sơ, một màu xanh lặng lẽ, lặng lẽ như chính con người nơi đây. Ông Nội chỉ tay ra phía cánh đồng bảo sau này toàn bộ cánh đồng này sẽ trả cho đền, đây là đất của đền cho bà con mượn để canh tác, khi đó ngôi đền sẽ có diện tích khoảng ba nghìn mét vuông. Phía sau ngôi đền là dòng suối Láu, hiền hòa và mải miết chảy từ trên đỉnh Pù Rinh xuống, dòng suối có nước trong vắt xuyên qua bao tán cây rừng và trườn lên bao phiến đá lớn nhỏ nằm dọc ngang nơi lòng suối. Suối Láu, con suối gắn liền với câu chuyện kể về nghệ thuật thu phục lòng người của Lê Lợi. Chính tại con suối này, Lê Lợi đã đổ bát rượu "hòa nước sông chén rượu ngọt ngào", thề cùng các tướng sĩ đồng cam, cộng khổ chống giặc nhà Minh khôi phục giang sơn. Sau một ngày đêm, cả tướng, cả quân chạy giặc, đến bản này thì vừa lúc trời mờ sáng, vừa đói vừa khát, chính nước giếng đã giúp cho nghĩa quân giải cơn khát, bà con nơi đây nấu cháo lươn ăn với thứ rau rừng quen gọi là rau húng. Lê Lợi đã lấy đó làm tên và đặt luôn cho bản này tên là Húng Hiên (húng là rau húng, hiên là trời tờ mờ sáng) một thứ rau ăn vào buổi sáng sớm tinh mơ. Câu chuyện  trong cái cách ông nội kể tôi thấy đậm đặc một bầu không khí dân gian, giản dị. Nghe ông kể tôi mường tượng ra cảnh cả tướng, cả quân cùng uống suối rượu, cùng ăn cháo lươn lá húng, cùng chuyện trò, động viên nhau, ấm áp đầy tình người và dung dị nghĩa tình quân dân. Ngẫm mới thấy Lê Lợi không chỉ hơn người ở tài thao lược binh pháp, mà còn hơn người ở cái tâm rộng lượng, hài hòa và yêu thương con người, có lẽ đó là động lực, là nguồn cơn cho tinh thần quả cảm, quyết tâm và trung thành của những người lính, người dân luôn dành cho ông. Minh chứng cho điều đó là sự kiện Lê Lai xả thân cứu chúa, trung thần cởi áo đóng giả làm minh chủ dụ giặc để Lê Lợi cùng nghĩa quân thoát khỏi vòng vây mà chẳng mảy may phân vân, sợ sệt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. 
Những tháng năm đầu của cuộc chinh chiến đánh đuổi quân Minh vô vàn những khó khăn, thử thách khi quân mỏng, lương ít, vũ khí chưa nhiều, thế giặc lại mạnh... bao phen sự sống và cái chết mong manh, ấy vậy mà nghĩa quân vẫn vượt qua và đi đến thắng lợi cuối cùng sau gần mười năm nằm gai nếm mật. Bên cạnh những lí giải khoa học của các nhà sử học, các nhà nghiên cứu, thì cái lí của dân gian trong các câu chuyện còn lưu truyền đến ngày hôm nay có pha chút màu sắc thần thánh hóa như sự phụ giúp của các bậc thánh thần. Thiết nghĩ cũng là để người dân được thỏa mãn ước mong ca tụng, tôn vinh ý nghĩa của chiến thắng ấy là chiến thắng của toàn dân tộc, là sức mạnh của tinh thần đoàn kết một lòng quân dân, là tinh thần yêu nước kiên cường bất khuất giúp cuộc khởi nghĩa đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đền Tên Púa được lập ngay chỗ nghĩa quân ngồi nghỉ và sau ngày nghĩa quân dời đi. Có thể ngày đó đền chưa thờ Lê Lợi và những anh hùng của nghĩa quân, ngôi đền lập nên để thờ thần sông, thần núi, thần cây, thần đất và cả những người lính của nghĩa quân đã ngã xuống... xem như một điểm tựa về tâm linh cho những người dân nơi đây nhờ các vị thần trợ giúp cho nghĩa quân. Sau này khi thắng lợi hoàn toàn và vua Lê Thái Tổ qua đời, người dân mới đưa ông vào danh sách những người xứng đáng được nhân dân sùng bái, ngưỡng vọng. Mà cũng có thể, trong tâm thức của người dân nơi đây, ngày đó ông và nghĩa quân Lam Sơn đã là những vị thần được đấng tối cao nào đó phái xuống để giúp dân, giúp nước đuổi trừ bọn đô hộ cướp nước, cướp làng, gây nên bao khổ nhục, tai ương, mang lại cuộc sống bình yên cho dân lành. Từ tâm thức đó, những câu chuyện bình thường, giản dị về nghĩa quân lại được dân gian hóa, thần thánh hóa vừa mang yếu tố lịch sử, vừa mang yếu tố tâm linh, điều này đã góp phần làm cho những câu chuyện liên quan đến nghĩa quân Lam Sơn và anh hùng dân tộc Lê Lợi được truyền từ đời này qua đời khác một cách tự nhiên, dân dã. Rừng núi Pù Rinh, suối Láu và cánh đồng Na Sơ như những người kể chuyện lịch sử, khi lồng lộng cao trào, khi rì rào to nhỏ. Cái giếng không bao giờ cạn nước như kho tàng cất giữ những câu chuyện trong cái đêm gần sáng ngày ấy mà tướng, quân và người dân trong bản nói với nhau, có cả những ước vọng, những buồn vui của người dân Húng Hiên gửi gắm vào đấy qua bao đời, qua bao thế hệ, qua bao nổi chìm dâu bể, sáu trăm năm vẫn rì rào, vẫn lồng lộng và trong biếc. 
Chúng tôi dời đền Tên Púa và suối Láu để đến với phiến đá luận công cách đó chừng hai kilômét, đường ngày càng khó đi hơn, trơn trượt và gồ ghề, trên đỉnh một trong những ngọn núi cao nhất của dãy Pù Rinh, một phiến đá rộng khoảng mười mét vuông, khá bằng phẳng. Theo ông Nội ngày trước phiến đá này lọt thỏm giữa vườn cam nhưng bây giờ người dân chặt hết cam vì già cỗi để trồng keo, giờ chỉ có lưa thưa vài cây xen giữa những cây keo một, hai năm tuổi. Nơi đây đã từng là “văn phòng” của toàn bộ “nội các” nghĩa quân Lam Sơn họp bàn và đưa ra những quyết định quan trọng trong việc giằng co đấu tranh với kẻ thù trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến. Từ phiến đá này phóng tầm mắt có thể bao quát hết mọi hướng, chính điều này đã tạo điều kiện cho các tướng lĩnh nắm bắt tình hình địch dưới chân núi và các hướng di chuyển của quân địch, từ đó đưa ra những quyết sách phù hợp với tình hình chiến sự cam go và ác liệt lúc bấy giờ. Tiếc là vườn cam đã không còn nữa, tới đây nhà văn hóa bản Húng Hiên sẽ được xây dựng ngay trên khu đất rộng và bằng phẳng đối diện với phiến đá luận công. Động viên bà con gây dựng lại vườn cam không chỉ quanh phiến đá mà trong vườn của từng nhà và những khu đất trống hai bên đường dẫn lên phiến đá đều sẽ trồng cây cam, vừa mang lại hướng đi mới trong phát triển kinh tế, vừa có tác dụng khôi phục lại cảnh quan năm xưa. Nghe thế tôi cũng thấy mừng, mừng vì người dân nơi đây đang làm sống dậy những không gian linh thiêng của lịch sử, mừng vì họ không còn tâm lí “trời sinh voi sinh cỏ” nữa mà đã hình thành tư duy làm ăn kinh tế, sẵn sàng giao lưu với bên ngoài, thu hút khách du lịch đến với Húng Hiên, đến với Giao Thiện, nuôi khát vọng về một cuộc sống sung túc và vui tươi hơn. Tôi có nhắc đến mô hình làm du lịch khá thành công ở bản Lát của tỉnh Hòa Bình, bản Năng Cát của xã Trí Nang như để thăm dò ý của ông Nội về tiềm năng của bản Húng Hiên. Chủ đề này có vẻ chạm đến tâm tư của ông vì tôi thấy ông hào hứng lắm. Ông nói khá nhiều, ông cho rằng hai địa danh ấy mất rất nhiều thời gian mới được như thế, nếu cán bộ và nhân dân xã Giao Thiện mà nắm bắt được chủ trương và cơ hội từ cấp trên đưa xuống đồng thời năng động hơn trong việc kêu gọi xã hội hóa đầu tư vào các hạng mục và công trình cơ bản phục vụ cho ngành du lịch thì Giao Thiện sẽ làm tốt hơn, nhanh hơn và hiệu quả hơn. Vì xã hiện tại đã có tiềm lực khá lớn về cảnh quan như thác Sao Ba, thác Hón Lối lớn gấp rưỡi thác Ma Hao của Trí Nang, bản Húng Hiên có 114 hộ thì có 98% số hộ vẫn giữ được nếp nhà sàn, có hệ thống các di tích lịch sử gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của anh hùng dân tộc Lê Lợi gồm đền Tên Púa, suối Láu, giếng không đáy, bàn đá luận công... Nhưng nếu chỉ một mình bản Húng Hiên, một mình xã Giao Thiện thì khó có thể làm được. Một vài năm gần đây xã Giao Thiện đang cố gắng khôi phục lại một số lễ hội và trò chơi dân gian như nước mới, lúa mới, khai xuân, khai hạ, ném còn, bóng chuyền... nhằm từng bước làm phong phú hơn các hoạt động văn hóa bản địa để từ đó góp phần thu hút khách du lịch đến với Giao Thiện. 
Tạm dời xa Húng Hiên, nàng công chúa vẫn đang chìm trong giấc ngủ say chờ một ngày hoàng tử đến chạm nụ hôn hồi sinh, chúng tôi đến với cô gái đẹp Năng Cát. Bản Năng Cát theo truyền thuyết chính là nơi nghĩa quân Lam Sơn dựng trại nghỉ ngơi trong một lần bị quân Minh truy đuổi. Chủ tướng Lê Lợi và các nghĩa binh chạy đến khu này thì người đã mệt, ngựa đã cạn sức, quân lính loay hoay dựng trại, nấu cơm. Họ mang nồi niêu ra suối để vo gạo, múc nước. Vì kéo nhau lội xuống suối quá đông, nên làm đục dòng nước, hôm đấy chủ tướng được thưởng thức món cơm độn cát. Thấu hiểu và cùng chia sẻ với nỗi gian truân, khó khăn của quân sĩ, Lê Lợi vừa nhai cơm vừa cả cười, liền đặt cho vùng đất này là Năng Cát để ghi dấu những lúc gian lao của những ngày đầu khởi nghĩa. Địa danh này nay là bản Năng Cát, thuộc xã Trí Nang. Bản Năng Cát trở thành cái tên mới nổi trên bản đồ du lịch của Việt Nam một vài năm trở lại đây. Năng Cát sau giấc ngủ dài, cô sơn nữ đã tỉnh dậy vươn vai đón ánh nắng và hương rừng núi trong sớm mai, khe khẽ ngân nga giọng hát nơi suối thác Ma Hao mơ màng và huyền bí. Ban đầu họ đến vì nghe thấy cái tên lạ, vì muốn khám phá, khá đơn lẻ, năm vài chục lượt và chủ yếu là những người thích phượt khám phá những vùng đất hay địa danh mới. Về sau, cũng nhờ những người đầu tiên ấy và thông tin về Ma Hao được lan truyền trên mạng xã hội, từ đó người tìm đến với Năng Cát ngày một nhiều hơn, riêng sáu tháng đầu năm nay đã đón trên một nghìn lượt khách. Đó là những chia sẻ của chị Hoàng Thị Hiền, cán bộ văn hóa xã Trí Nang, người đưa tôi đến xem mặt nàng sơn nữ Năng Cát đang ngân nga bài ca của người Thái bên suối thác Ma Hao thướt tha và đầy vẻ mê hoặc.
Tôi nghĩ, Ma Hao đủ sức chiều lòng những người khó tính nhất, bởi suối thác này không chỉ đẹp, mạo hiểm mà còn chất chứa trong nó nhiều câu chuyện kỳ bí, tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ xin đề cập đến câu chuyện “Chó Ngáp”, câu chuyện gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và chủ tướng Lê Lợi. Dường như từng gốc cây, ngọn cỏ, từng con đường, con suối, từng viên đá cuội nơi này cũng mang màu sắc huyền sử, công trạng từ những ngày đất nước đứng lên giành lấy độc lập, bình yên cuộc sống. Nhưng ai là người đặt tên cho thác? Chuyện kể rằng nghĩa quân Lam Sơn có một chú chó rất thông minh. Trong một lần, Lê Lợi cùng quân lính chạy từ đỉnh núi Chí Linh xuống, người và vật đã kiệt sức thì gặp một con thác cao chảy xiết. Quân giặc lại đuổi phía sau, nên Lê Lợi và quân lính phải mạo hiểm dầm mình vượt thác qua bờ bên kia. Con chó đứng lại canh chừng, khi mọi người qua hết gọi nó bơi sang nhưng nhất định không lay chuyển chỉ đứng ngáp. Quân giặc đuổi đến, con chó liền quay lại cắn xé đàn chó của giặc tới khi kiệt sức rơi xuống dòng nước xoáy. Vị vua Lê Lợi một lần nữa thoát kiếp nạn. Quân giặc rút đi, Lê Lợi sai quân lính tìm xác con chó chôn cất nó tử tế và đặt tên là thác Chó Ngáp (tiếng Thái là Ma Hao). ở Lang Chánh không chỉ có thác Ma Hao mới có cái tên đậm màu cổ tích huyền thoại, ngoài thác còn có chùa Mèo, ngôi chùa gắn liền với câu chuyện khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa, một lần chủ tướng Lam Sơn cùng nghĩa quân lánh nạn trong chùa trước sự truy lùng gắt gao của giặc Minh, thấy trong chùa chỉ còn lại con mèo, ông đã sai nghĩa quân đem theo con mèo cùng đi lánh nạn. Lòng thương cảm và trách nhiệm của chủ tướng ngay cả đối với con vật nuôi bé nhỏ đã thổi bùng ngọn lửa căm thù giặc, quyết giành lại non sông, cởi ách xâm lăng của giặc Minh làm nức lòng quân sĩ xông lên diệt giặc. Sau khi giành thắng lợi, ngôi chùa đã được Lê Lợi cho tu sửa và đổi tên thành chùa Mèo để ghi nhớ sự kiện đó.
Trao đổi với chúng tôi, bà Lê Thị Tâm, trưởng phòng Văn hóa huyện Lang Chánh chia sẻ: Lang Chánh có nhiều lợi thế để phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng. Với hệ thống rừng nguyên sinh phong phú, khí hậu quanh năm mát mẻ, sông suối, thác nước đẹp, nhiều hang động núi đá vôi kỳ thú, cảnh quan sinh thái nguyên sơ, nhiều di tích lịch sử, văn hóa giá trị, phong tục, tập quán và sinh hoạt văn hóa của đồng bào dân tộc Thái và đồng bào dân tộc Mường. Trong mấy năm gần đây phát triển du lịch cộng đồng và du lịch sinh thái là hai loại hình du lịch đã được lãnh đạo huyện chú trọng bởi ngoài việc đem lại lợi ích kinh tế - xã hội, khai thác loại hình du lịch này còn góp phần bảo tồn văn hóa truyền thống, bản sắc tộc người, giữ gìn cảnh quan tự nhiên.
Đặc biệt, nhiều danh lam gắn với cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh. Đó là di tích lịch sử văn hóa chùa Mèo, danh lam thắng cảnh thác Ma Hao, bản Năng Cát, xã Trí Nang. Ngoài ra còn có nhiều điểm du lịch được sử sách ghi lại gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, như: Suối Vớ, tại xã Giao An, nơi xưa kia Nguyễn Trãi lấy mật viết lên lá cây, để kiến đục thủng, thay cho lời của Trời và thần linh với nội dung: "Lê Lợi vi Vương, Lê Lai vi Tướng, Nguyễn Trãi vi Thần"; hay suối Láu ở xã Giao Thiện, nơi Lê Lợi đổ bát rượu xuống suối "hòa nước sông chén rượu ngọt ngào", thề cùng các tướng sĩ đồng cam, cộng khổ chống giặc nhà Minh khôi phục giang sơn... Thời gian tới, huyện sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức “Hội thảo Lang Chánh với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn” để củng cố hồ sơ, tư liệu, trên cơ sở đó kêu gọi đầu tư, tôn tạo các điểm du lịch một cách bài bản. Từ đó để người dân, du khách thấy được quãng thời gian Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn "nếm mật nằm gai" chống lại giặc Minh tại núi rừng Lang Chánh, cũng như mở thêm hướng đi mới cho nhân dân phát triển kinh tế thông qua các loại hình du lịch. Cũng trong cuộc trao đổi với chúng tôi, bà Tâm cũng bộc bạch nhiều trăn trở về việc làm sao thay đổi được ý thức hệ, tập tục khép kín của bà con dân bản, làm sao để đem kiến thức làm du lịch đến cho bà con, và đặc biệt làm sao để bà con ý thức được việc vừa làm vừa giữ bản sắc văn hóa của mình không bị ảnh hưởng, đổi thay về tư tưởng khi mở cửa giao lưu với bên ngoài sẽ đánh mất đi cái hình ảnh rất Thái, rất riêng của người Lang Chánh. Thêm vào đó là quá trình kêu gọi xã hội hóa và đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển dịch vụ du lịch trên toàn huyện vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. 
Từ Trí Nang về đến thị trấn thì trời đã chiều muộn, cơn mưa chiều làm thị trấn Lang Chánh ướt sũng, hàng cây hai bên đường xanh mướt mát, khẽ hát theo gió núi lời bài ca sơn cước. Hãy còn văng vẳng bên tai tiếng ầm ào của Ma Hao tuôn chảy, tiếng ơi hời của điệu hát Thái, và in hằn trong tâm trí cuộc sống bình yên, thanh bình của bản Năng Cát, bản Húng Hiên. Pù Rinh vẫn huyền bí và lặng lẽ trong mây chiều gió núi với bạt ngàn cây rừng, bạt ngàn suối thác, vẫn một mực giữ cho riêng mình những bí mật của lịch sử sáu trăm năm qua. Hay Pù Rinh hát, Pù Rinh kể bằng gió, bằng mây, bằng một thứ ngôn ngữ riêng mà vì không thể hiểu nên khiến con người ta cứ phải thao thức, trăn trở, băn khoăn đi tìm. Khi chia tay chị Hiền như trải lòng tâm sự với chúng tôi “trên dãy Pù Rinh hãy còn rất nhiều những bí mật, đó là chiếc bàn đá làm việc nơi mà chủ tướng Lê Lợi bao lần cay đắng cắn môi tứa máu, đập tay xuống bàn vì những lần nghĩa quân rơi vào cảnh thế yếu sức mọn, bao nhiêu lần Lê Lợi cùng quân sư Nguyễn Trãi bàn mưu tính kế giết giặc nơi chiếc bàn đá đó, cả những kho gươm đao, giáo mác, cung tên... là nơi cất giữ vũ khí của nghĩa quân Lam Sơn vẫn còn lẩn khuất đâu đó nơi Pù Rinh chưa thể tìm thấy dù rằng trong những câu chuyện của các già làng, trưởng bản vẫn luôn nhắc đến. Chúng tôi sẽ phải tìm bằng được, dù có khó khăn và tốn nhiều thời gian công sức đến mấy, để nhắc nhở cháu con về tình yêu và trách nhiệm với tổ quốc, với đồng bào thông qua những chứng tích cụ thể mà các thế hệ ông cha để lại”. 
              

 N.H


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 69
 Hôm nay: 3807
 Tổng số truy cập: 13459864
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa