Cơ duyên và “Nội tướng” (ký sự) - Lê Ngọc Minh
Trong công việc viết lách, tôi cứ thiển nghĩ, không ít người đã may mắn gặp được khoảnh khắc ấn tượng, một thứ cơ duyên cứ níu neo cảm xúc, cứ thôi thúc nhu cầu ngẫm ngợi, trù liệu... rồi bất ngờ đến một lúc nào đó “bật ra như tín hiệu hanh thông cho ngòi bút” mà có nhà văn đã gọi một cách sang trọng là: Tia chớp sáng tạo.
Tôi cũng đã có may mắn gặp được cái khoảnh khắc ấn tượng rất mực cơ duyên ấy. Nhờ đó mà tôi viết được “Nội tướng”, cuốn tiểu thuyết nhiều dấu ấn lịch sử về một người phụ nữ xứ Thanh có đóng góp lớn lao cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do vị Anh hùng dân tộc Lê Lợi lãnh đạo.
Còn nhớ vào dịp đi dự trại viết truyện ngắn của Tuần báo Văn Nghệ do tỉnh Thanh Hóa đăng cai và tài trợ tại thành phố biển Sầm Sơn, tháng bảy năm 2016. Sau khi kết thúc chương trình khai mạc và hội thảo trao đổi công việc sáng tác, tôi cùng một số nhà văn được phân công vào nhóm đi thực tế tại Công ty Mía đường Lam Sơn, một đơn vị kinh tế hàng đầu của xứ Thanh.
Ngay hôm đầu đến đây, chúng tôi được đi tham quan toàn cảnh công ty, một số nơi trồng trọt nguyên liệu mía cũng như hai nhà máy hiện đại đang sản xuất ra hạt đường thành phẩm tinh luyện.
Là một công ty đang đa dạng hóa ngành nghề sản xuất, kinh doanh nên bên cạnh cây mía hạt đường đã có truyền thống gần bốn mươi năm, các vườn cam, bưởi, dưa leo, dưa Kim Hoàng hậu... được trồng theo công nghệ mới; các vườn hoa lan, các trung tâm cây giống, cây cảnh cũng được lai tạo theo công nghệ mới trải dài cả một vùng rộng lớn ở phía tây đường Hồ Chí Minh.
Chúng tôi được đưa đến dâng hương ở một địa chỉ văn hóa tâm linh chỉ cách trung tâm thị trấn Lam Sơn một cây số. Đó là đền thờ Quốc mẫu Trịnh Thị Ngọc Lữ thuộc địa phận làng Bái Đô, xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân.
Từ thẳm sâu, tôi hết sức khâm phục những tác giả kiến trúc, xây dựng đã tạo nên một phối cảnh di tích tâm linh thật tuyệt vời. Tuyệt vời bởi ngôi đền uy nghi tựa lưng vào cánh rừng tre trúc ngút ngàn như một bức án hậu xanh ngắt khổng lồ. Tuyệt vời bởi toàn bộ ngôi đền hướng ra những cánh đồng rộng rãi, những vườn cây um tùm, quả sai trĩu. Tuyệt vời bởi những đơn nguyên trong khuôn viên, gồm đền chính, chùa, nhà giải vũ, tháp chuông, bia ký... nêu công tích của Quốc mẫu được xây dựng hài hòa trong một tổng thể trang nghiêm, thăm thẳm nguồn cội, thăm thẳm tâm linh. Tuyệt vời bởi những cụm cây hoa mà phần đa là mẫu đơn đại đóa được chăm tỉa công phu và phát tiết thứ nội lực mỡ màng từ đất đai, từ khí trời trong lành, thoáng đãng. Tuyệt vời vì tổng thể cảnh quan toát lên một bầu thanh khí lâng lâng.
Theo nội dung bảng văn nêu công tích đặt trong nhà bia trước hồ sen bán nguyệt, Quốc mẫu Trịnh Thị Ngọc Lữ là người vợ từ thuở tào khang của đức Thái Tổ Cao Hoàng đế nhà Hậu Lê, Lê Lợi. Bà sinh ra ở chính nơi này, làng Bái Đô (tên cũ là Bái Đê). Bà đã có công lao to lớn giúp Thái Tổ nối chí hưng vượng họ Lê ở đất Lam Sơn và đại nghiệp dựng cờ khởi nghĩa, lãnh đạo nhân dân Đại Việt kháng chiến chống giặc Minh xâm lược toàn thắng vào năm 1428, lên ngôi Hoàng đế, khai mở nhà Hậu Lê, một triều đại có chiều dài lịch sử gần bốn trăm năm.
Bà là mẹ của Quốc vương Tư Tề, người con cả của Thái Tổ, một vị tướng tham gia trận mạc từ lúc mới qua tuổi thiếu niên, hai mươi tuổi đã làm Hữu tướng quốc, vâng mệnh Bình Định Vương Lê Lợi cùng tướng quân Lê Nhân Chú vào thành Đông Quan làm con tin sau hội thề Đông Quan(1) năm 1927; hai mươi hai tuổi đã được gia phong “kim sách” (nghĩa là nội dung tờ chiếu được khắc trên sách bằng vàng lá) làm Quốc vương, Khai quận công, thay Thái Tổ coi việc nước mỗi khi vắng ngài. Một vị tướng, một vị thân vương cốt huyết hoàng tộc, một người con trưởng của Thái Tổ công lao và danh giá đến như thế mà lại bị cách chức, bị thu hồi quân bản bộ trước khi Thái Tổ băng hà có mười hai ngày và năm năm sau (năm 1438) còn bị giáng xuống làm thứ dân, chìm lấp hẳn vào dòng chảy lịch sử.
Đương nhiên, là mẹ của vị Quốc vương bị thất sủng, Quốc mẫu Trịnh Thị Ngọc Lữ cũng bị giáng.
Theo số đông các nhà sử học thì trong sử sách chính thống, Quốc mẫu chỉ được chép có hai câu trong tác phẩm Đại Việt thông sử, mục Trịnh Thần phi (vợ Lê Thái Tổ, mẹ Tư Tề) của nhà bác học Lê Quý Đôn (thế kỷ 18): “Thần phi Trịnh Thị Lữ, người trang Bái Đê (Bái Đô - chú thích của tác giả tiểu thuyết), huyện Lôi Dương, sinh ra Quận vương Tư Tề. Mất năm Thái Hòa (1443-1453), đời vua Nhân Tông”.
Song, đọc kỹ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên chúng tôi còn thấy có thêm một tư liệu về Đức bà Quốc mẫu. Đó là vào ngày 21 tháng Giêng, năm Thuận Bình thứ 2 (niên hiệu của vua Lê Thái Tông-1435), ba vị ngôn quan (quan coi việc can gián) là Phạm Thiện Tước, Lương Thiên Phúc, Nguyễn Chiêu Phú đã dâng lên Thái Tông về sáu điều không nên của ngài, trong đó điều không nên thứ ba, các ngôn quan viết: “Đến như Thần phi, Huệ phi là bậc dì vào cung răn dạy thì bệ hạ cho đóng cửa trước mà không cho vào”(2).
Dù nhà viết sử không chép rõ họ tên nhưng trong thời điểm Thái Tông mới lên ngôi được hai năm, các vị Thần phi và Huệ phi được chép ở đây và gọi là “bậc dì” thì chắc chắn, Thần phi chính là bà Trịnh Thị Ngọc Lữ (vợ cả của Thái Tổ) và Huệ phi chính là bà Phạm Thị Nghiêu (vợ thứ của Thái Tổ).
Với một nhân vật có những đóng góp lớn lao như Quốc mẫu, tại sao sử sách chính thống lại có sự giản lược như thế?
Chính câu hỏi này đã thôi thúc chúng tôi phải nghĩ ngợi, phải tìm hiểu về Đức Bà Trịnh Thị Ngọc Lữ.
Năm 2017, chúng tôi về thăm lại Lam Sơn và đề đạt nguyện vọng với Anh hùng Lao động Lê Văn Tam, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty mía đường Lam Sơn, Chủ tịch Hội đồng họ Lê Việt Nam, vị doanh nhân đã có công đầu trong việc xây dựng ngôi đền thờ và tổ chức hội thảo khoa học lịch sử về thân thế và sự nghiệp của Trịnh Quốc mẫu để thực hiện một cuốn sách về Bà.
Ông Lê Văn Tam nhiệt tình giúp đỡ nguyện vọng của tôi và còn mời nhà sử học, nhà báo Lê Xuân Kỳ, Nguyên Phó Chủ tịch phụ trách khối Văn - xã huyện Thọ Xuân, Nguyên Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Thanh Hóa làm cố vấn về địa chí và lịch sử cho tác giả.
Chúng tôi còn được may mắn được tiếp cận với một cuốn kỷ yếu dày dặn gồm các tham luận có nội dung trân trọng, tâm huyết của nhiều tên tuổi lớn như Phan Huy Lê, Đinh Xuân Lâm, Dương Trung Quốc, Văn Tạo, Hoàng Tuấn Phổ... tại cuộc Hội thảo về cuộc đời và những đóng góp của Trịnh Quốc mẫu đối với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Thái Tổ lãnh đạo.
Nhà sử học Lê Xuân Kỳ là một người uyên bác và kỹ lưỡng.
Ông đưa chúng tôi đi đến nhiều nơi có dấu tích sinh thời của Trịnh Quốc mẫu và các nhân vật lịch sử như Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi, Lê Thận, Lê Văn An... nghe nhiều chuyện về thần tích, thần phả tôn vinh Đức bà; thăm các địa danh liên quan đến họ Lê ở Lam Sơn, họ Trịnh ở Bái Đô và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn như: Động Chiêu Nghi, Lũng Nhai, núi Mục Sơn, sông Chu, khu di tích lăng mộ Lam Kinh, đền thờ Trung Túc Vương, Trung Dũng Vương, thăm tư gia và trò chuyện với hậu duệ ngành trưởng họ Trịnh của Quốc mẫu...
Nhà sử học Lê Xuân Kỳ cũng cung cấp cho chúng tôi nhiều tư liệu quý như gia bảo mà ông sưu tầm tích góp trong nhiều năm nghiên cứu sử học của mình.
Chúng tôi nhận ra rằng, về thân thế của Quốc mẫu, tuy sử sách chính thống viết rất ít ỏi nhưng truyền thuyết, thần tích, thần phả... về Người thì khá phong phú mà “tích” nào cũng được kể với sự ngưỡng phục, tôn vinh, trọng vọng. Ví dụ: Mặc dù các đương kim Hoàng đế triều Lê Sơ không gia phong ngôi Hoàng hậu cho các bà vợ, nhưng trong truyền thuyết, Thái Tổ được trời ban cho ấn báu và cán gươm Đại Định thì dân gian đã gọi Quốc mẫu là Hoàng hậu.
Những truyền thuyết khác như việc Quốc mẫu dâng bánh gai làm lương khô cho nghĩa quân, Quốc mẫu cùng gia nhân đi học cách đồng bào Mường dệt thổ cẩm để làm cái mặc cho người trong nhà và sau này làm quân trang cho tướng sĩ Lam Sơn, về chuyện Bà đi tầm thợ giỏi để rèn gươm Đại Định cho Thái Tổ, về chuyện khéo léo “bài binh bố trận” để lưu đại hiền Nguyễn Trãi “vi thần” cho lãnh tụ Lê Lợi trong lúc cuộc khởi nghĩa đang còn mới phôi thai... đều được kể bằng những tình huống, chi tiết vừa dân dã, vừa sinh động cuốn hút...
Những truyền thuyết đó làm nên hình tượng Trịnh Quốc mẫu thật sáng danh vị của một Nội tướng thao lược, nhu nhịn và mẫn cán của lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi.
Từ những câu chuyện dân gian thú vị và gợi mở đó, khi tư duy cho một kiến trúc chủ đề và trù lượng nội dung cuốn sách về Trịnh Quốc mẫu, chúng tôi đã thu nạp được nhiều tư liệu đầy ắp những chấm sáng của thần tích, thần phả và truyền thuyết.
Bởi thế, chúng tôi dùng thể loại tiểu thuyết lịch sử để làm phương tiện chuyển tải chủ đề, nội dung và hình tượng nhân vật của cuốn sách.
Tựa đề cuốn sách được đặt bằng cái tên giản dị nhưng không kém phần gợi: “Nội tướng”.
Cùng với vị thế của nhân vật chính Trịnh Quốc mẫu, nhân vật lịch sử, Anh hùng dân tộc Lê Lợi xuất hiện trong tác phẩm một cách quán xuyến và chi phối trong đường dây cốt truyện tổng thể cũng như trong các tiểu tiết chương, đoạn.
Chúng tôi bám chắc vào những “cái đinh” lịch sử trong đại nghiệp của Thái Tổ, coi đó là cái bất biến.
Nhưng chúng tôi cũng thao thiết hình dung ra cái tinh thần lịch sử, cái không gian lịch sử mà nhân vật lịch sử đã sinh thành và tồn tại, đã suy nghĩ và hành động, theo đó, các sự kiện được diễn ra theo logic cuộc sống, có thuận, có nghịch, có thăng, có trầm, có yêu, có ghét... Trường đời phức hợp ấy rèn đúc nên chí khí và bản lĩnh của nhân vật. Đó là cái vạn biến.
Có người cho rằng Lê Lợi “ít chữ”, tức là ít học, hoặc không được học hành.
Chúng tôi không tán thành cách nghĩ đó.
Theo chúng tôi, Lê Lợi không xuất thân khoa bảng, nhưng Ngài đã được học hành với những bậc thầy thông tuệ. Nếu là người “ít chữ” làm sao Ngài có thể ứng tác được những câu thơ rất khẩu khí đế vương, nhưng không kém phần trữ tình khắc trên vách đá ở Vạn Bờ, Đà Bắc sau khi hành binh dẹp xong loạn cát cứ đèo Cát Hãn khải hoàn:
Biên phòng hảo vị trù phương lược
Xã tắc ưng tu kế cửu an
Hư đạo nguy than tam bách khúc
Như kim chỉ tác thuận lưu khan.
Nghĩa là:
Ngoài lo phương lược yên bờ cõi
Trong bày kế sách vững nước nhà
Sông ba trăm thác, lời hy vọng
Thuận dòng nay cứ lướt thuyền xa.
Trong Cáo bình Ngô, khi còn nấp mình nằm gai nếm mật, Ngài đã “Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ”. Nếu “ít chữ” thì làm sao Ngài có thể quên ăn, quên ngủ để đọc các sách thao lược, để tính toán, suy ngẫm thấu đáo về thời thế, về lẽ hưng vong?
Nếu “ít chữ” làm sao Ngài đủ kiến thức quân cơ để bày trận đánh mai phục đầu tiên, khi lực lượng của nghĩa quân chỉ có một ngàn người nhưng đã đánh thắng hai đạo quân thủy bộ hơn một vạn rưỡi tên do các danh tướng nhà Minh là Mã Kỳ, Sơn Thọ chỉ huy, chém dư ba ngàn thủ cấp, khiến giặc phải rút lui về cố thủ ở thành Tây Giai?
Nếu “ít chữ” làm sao Ngài có thể đối mặt, đối thoại với tổng binh Vương Thông và “văn võ” của y trong hội thề Đông Quan vừa sắc sảo, điển nhã, vừa thông thái, quyền biến đến thế? Kiến văn và khả năng cảm hóa của Ngài trong cuộc hội thề lịch sử đó đã khiến những tên giặc trùm sỏ phương Bắc trước khi cuốn xéo đã phải đến “chia tay” với Ngài bằng một thái độ vừa phục thiện, vừa ngưỡng mộ như là với những bậc tri kỷ, tri âm.
Trong tác phẩm “Nội tướng” của chúng tôi, chân dung vị Anh hùng hiện lên những nét đời thường rất mực gần gũi như bản tính những người nông dân áo vải nhưng đồng thời cũng luôn bất ngờ toát ra cái chí khí hơn đời, hơn người, phẩm chất chỉ có ở những bậc Anh hùng cái thế.
Vì thế, “Nội tướng” không đơn giản là câu chuyện trong nhà của Quốc mẫu và Thái Tổ mà còn ôm trùm cả sự nghiệp vĩ đại của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, của cuộc kháng chiến chống xâm lược Minh mười năm với những tên tuổi sáng chói trong lịch sử dân tộc như: Lê Lai, Lê Thạch, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn Linh, Lê Văn An, Nguyễn Chích...
Bên cạnh đó có nhiều nhân vật vô danh, họ là những “dân ấp, dân lân”, những người thợ rèn, những người lái đò, những thân phận cơ nhỡ, những kẻ làm tôi, làm tớ như Lam Thu, Lam Đông... đã hiện lên bằng các hình tượng cần cù, chân thật, trọng nghĩa, quên mình xả thân vì tình đồng bào, vì sự hưng vong của cộng đồng, của quê hương, đất nước.
Trên bình diện đông đảo các nhân vật đa dạng mạo diện và tâm tính ấy là hình ảnh một vị Nội tướng, người đã kề vai sát cánh với một vị Anh hùng dân tộc làm nên lịch sử chói lòa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và mở ra triều đại nhà Hậu Lê rỡ ràng. Nhưng vì sao, khi lẽ ra được an hưởng phú quý trong “mùi chung đỉnh” thì vị Nội tướng lại bị những tai vạ, những thiệt thòi vô lý đến mức bi kịch?
Đó là câu trả lời mà lịch sử còn để ngỏ.
Chỉ có nhân dân vĩ đại là không quên công tích của Đức bà Quốc mẫu.
Tên tuổi Đức bà sống mãi, thăng hoa trong ký ức nhân dân, như một nhà thơ nổi tiếng gốc xứ Thanh đã viết: “Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ”(3).
Đó cũng là thông điệp khiêm cung mà chúng tôi muốn gửi đến quý độc giả về cơ duyên chúng tôi làm sách “Nội tướng”.
Và, thật hạnh phúc khi tác giả được dâng trình “ Nội tướng” đến quý độc giả xa gần.
L.N.M
---------------
(1) Sau hội thề Đông Quan, phía Nghĩa quân Lam Sơn gửi Hữu tướng quốc Lê Tư Tề và tướng Lê Nhân Chú vào thành làm con tin; phía quân Minh cũng gửi giám binh Mã Kỳ và thái giám Sơn Thọ ra dinh Bồ Đề ở Gia Lâm làm con tin.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1998, Tập 2, trang 325.
(3) Thơ Nguyễn Duy.