Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Truyện ngắn   /   Hậu duệ người chăn ngựa vua Lê - Từ Nguyên Tĩnh
Hậu duệ người chăn ngựa vua Lê - Từ Nguyên Tĩnh

Tôi mong những dòng này đừng đến tay Phách, bạn thời sinh viên đại học. Không hay ho gì mà dứt bỏ chút tình còn sót lại. Tôi nói còn sót lại, bởi ra trường không tin tức gì của nhau, không ghét bỏ mà cũng chẳng mặn mà gì, sau hai mươi năm gặp lại, cười í ố như buổi tựu trường:
- Chào: “Bố già Thời khói lửa!” - Phách chào tôi.
- Chào: “Nhà triết học chán đời” - Tôi đáp lại.
 Tôi và Phách sống cùng phòng với nhau tới bốn năm. Bốn năm ấy bao nhiêu là niềm vui nhưng cũng chứa nhiều nỗi buồn. Chúng tôi từng hồi hộp cho rằng, trường đại học là nơi chắp cánh ước mơ cao đẹp. Sẽ gặp được những con người tinh khôi, thơm phức về tình đời và khát vọng sống phấn đấu. Nhưng có lẽ, chỉ nước mình mới có chuyện vá víu những người lỡ lứa, quá thì; qua chiến tranh, thất học mới quay lại để lấp đầy kiến thức hoặc kiếm một công việc gì đó, nếu không có tấm bằng trong tay. "Định mệnh" bày đặt từ lúc bước chân vào trường đại học. Đáng ra phải vui mới phải, bõ công đèn sách, sau năm tháng chiến trận, ước mơ của các anh tôi, muốn em mình vào đại học đã thành.
Tôi trải qua mười năm lính với nhiều nghề như pháo thủ, băm bèo thái rau nuôi lợn, làm giáo viên văn hóa, viết sử và làm phóng viên báo Quân khu (dẫu là tập sự),... Phách cũng làm đủ thứ việc: thợ xây, thợ mộc, gánh rau từ Kim Bảng lên thị xã Phủ Lý bán dạo. Cùng cảnh "cưa sừng làm nghé", mài đũng quần trên ghế trường đại học nên chúng tôi mau chóng thân nhau.
Nhớ lại ngày nhập học, thật vụng về hết chỗ nói. Chúng tôi vẫn thường đem ra chế giễu nhau. Tự hỏi, có thật ta đã vào được cổng trường đại học rồi không? Tôi thấy một gã mặc áo màu xanh bảo hộ của "phu làm đường", vác cái hòm gỗ to kềnh, đánh véc ni rất bóng, đặt đến ịch một cái, chưa kịp lấy hơi, vội: “Có!” khi nghe cán bộ khoa Văn xướng danh: “Lê Hữu Phách”. Không nhịn được cười, tôi nói đùa:
- Cứ tưởng ông đưa con nhập học kia đấy.
Phách cũng nói lỡm lại:
- Còn tôi tưởng “ông bác” đưa cháu vào học! Hắn cười hềnh hệch, cái mũi vẹo hẳn đi, nom rất tức cười. 
Chúng tôi không nhận ra mình cũ kỹ, quê mùa. Vậy là thân nhau, cùng lớp mà lại. Tôi và Phách vốn cùng họ Lê. Thực tình thời ấy, chưa ai nghĩ nhiều đến chuyện tìm gốc gác họ hàng. Chân ướt chân ráo, tôi được phân công làm lớp trưởng mấy chục sinh viên, năm đầu chưa phân ban, thành lớp Văn hay Ngữ, cũng chưa bị tách ra hai lớp Văn như sau này. 
Chúng tôi có nhiều ước mơ lắm. Người ta nói, sinh viên khoa Văn, năm thứ nhất, một trăm sinh viên đều là một trăm nhà thơ. Đến năm thứ hai còn lại năm mươi nhà thơ, năm mươi nhà văn. Năm thứ ba còn lại mươi nhà thơ và năm sáu chục nhà lý luận phê bình. Năm thứ tư không còn nhà thơ nào nhưng xuất hiện những nhà viết kịch.
Thú thật sinh viên, phần đông là học sinh phổ thông, kém tôi và Phách hàng chục tuổi. Mười bảy đôi mươi, đầy khát vọng. Họ là những "nhà thơ" thực sự trong tương lai. Tôi lại khác họ. Những gì là thơ mộng, tràn trề sức sống đã dành cho năm tháng chiến tranh rồi. Kể từ lúc bước vào quân ngũ, đã khát khao làm những vần thơ, bài báo ca ngợi tinh thần chiến đấu, hy sinh của người lính. Bức tranh hoành tráng của cuộc chiến tranh làm cho trái tim tràn ngập niềm tin yêu và sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình. Ghi nhật ký, ghi chép trận đánh. Viết tin gửi cho đài, báo. Thơ ùa vào bất cứ lúc nào, dù ngày hay đêm. Lúc gác, khi trực chiến... Những sự kiện dồn dập, lặp lại, không làm sao ghi nhật ký cho có dư vị, hấp dẫn, mà đành thưa nhặt và bỏ bê... Bởi trong chiến tranh cũng lấp ló những khuôn mặt giả, khoác bằng mặt nạ của đủ dạng thức đã làm cho trái tim ngây thơ phải thất vọng. Thơ viết ra, đáng lý phải mềm mại, thơ ngây, đôn hậu... đón nhận chiến tranh như trẩy hội, thì lại chọn cách bẻ câu thơ cho nát vụn ra. Số phận bị ám bởi cách viết tùy tiện này mà không được sự đón nhận của biên tập và công chúng. Nhà thơ đàn anh, biên tập ở tòa soạn tạp chí Thơ địa phương đóng quân, viết thư trả lời: "Đồng chí, đã tìm tòi cách thể hiện, có lạ đấy, nhưng xúc cảm phải đuổi kịp và vượt lên triết lý của sự kiện thì mới tạo ra được hoàn chỉnh của tứ thơ". Đối với một kẻ chưa qua trường lớp, hiểu cho cặn kẽ chừng ấy cũng khó lắm thay. Lại bị sự từ chối của chuyện “chuyển ngành” ra dân sự, thành thử "nàng thơ", ra đi vì sự bội bạc mất rồi. Không hiểu sao, giọng điệu triết lý đậm màu đắng đót lại xuất hiện trong khẩu khí của mình, sự già nua đến sớm, phong trần ám vào nên dân sinh viên nhìn thấy vẻ khắc khổ của "bố già thời khói lửa". Phách, tiếp thu kiến thức rất nô lệ. Hắn hay nhắc lại những thuật ngữ, với sinh viên thật mới lạ, nào "tham chiếu", "cảnh tỉnh", "ngộ ra", hoặc "thi pháp", "đồng đại, lịch đại", "cái vô thức", "cái phi lý phá bỏ cái có lý", v.v... Trong một lần, học triết học, giáo viên gọi nhầm: “Anh Bách lên bảng”. Hắn hùng hồn: “Thưa… Em là Lê Hữu Phách ạ!”. Không hiểu ai đệm vào: “Cứ gọi là Phơ - Bách cho nó có vẻ nhà triết học!”. Thế là Phách cứ ỉm mà nhận cái tên của nhà triết học Đức - Lút vích Phơ Bách. Không hiểu ai gán cho hắn là tình nhân của Phơ, cô gái người xuôi lên Sơn La làm cán bộ văn hóa. Điệu đàng, nếu không bị tàn hương tàn phá, nhìn cũng không đến nỗi nào. Cô ta tuyên bố xanh rì: “Chị sinh ra để làm nghệ thuật”. Lúc này đang có cuốn sách, nghe tên rất lạ: "Sự tráo trở của phương pháp"(*). Lại được học về dòng văn học huyền ảo châu Mỹ Latinh, hắn dõng dạc tuyên ngôn: “Phơ là sản phẩm của nhà điêu khắc chán đời!”. Nhưng ai ngờ hắn lại được phong là “nhà điêu khắc chán đời”, có lẽ do sự dị dạng của ngoại hình chăng? Không biết được gặp rồi mọi người sẽ nhận ra thôi. Mầm mống của sự hoang tưởng, cuồng vĩ, đã lạc vào Phách từ lúc nào không hay. Hắn có cách nói hùng hồn, áp đặt như dao chém đá nên ai cũng ngại. Chuyện không có gì đáng nói nếu nó cứ trầm buồn như thế mà trôi qua. Vì khao khát được đến trường học, muốn tìm và lấp vào chỗ trống mà rất muốn làm quen với các thày giáo, cởi mở và hào phóng. Tôi không phải đến trường đại học bằng hai bàn tay trắng, mà đã đọc không ít tác phẩm từ các thư viện, các cuốn sách "tạp pí lù" lạc vào tay mình. Cái ý thức "phản biện" lúc nào cũng thường trực làm cho ý kiến của mình cũng "có vấn đề" mỗi khi có dịp uống chè chén ở quán cóc với thày này, thày nọ. Họ ít tuổi hơn tôi rất nhiều, nhưng là những người phần lớn là xuất sắc, lại chín muồi ở đúng độ tuổi nên rất nhạy cảm với "những tia chớp" trong cách phân loại ý kiến của học sinh quá lứa. Sinh viên, cũng có lắm loại. Những học sinh mới vừa rời phổ thông đến trường hơn hớn với bao ước mơ tinh khôi. Một số, làm cán bộ văn hóa được cử hoặc gửi vào trường đại học, có lương ăn và có thể ở lâu trong trường chưa chịu tốt nghiệp cũng được, ra trường về chốn cũ ít ra, sẽ được đề bạt một chức vụ gì đó. Một số nữa, bổ túc qua loa ở các trường văn hóa tập trung của tỉnh, thi không đậu thẳng mà lùa vào "dự bị đại học", mất một năm nữa lêu têu ở trường, thi lại, hầu như là không ai trượt. Còn một loại, xoay sở, chạy ngược xuôi chuyển ngành không ai nhận, trót có ước mơ văn chương, đành muối mặt cắp sách đến trường. Trong thâm tâm không khỏi nguội lạnh với thơ văn phú lục, nhưng cũng vừa thoát nạn, bước chân vào cửa trường đại học. Ngẫm ra, có biết bao đồng đội ngã xuống, tuổi đôi mươi, ước mơ học hành gửi vào đất. Cái chất lính chưa mất đi, cứ tưởng mình đúng là sẽ được công nhận. Cái vấp đầu tiên, gây cho sự phiền toái do tay Trư đồng hương với Phách, không hiểu thế nào, gặp những cô gái có nhan sắc, không phải chỉ riêng khoa Văn mà cả khoa Sử, Địa... hắn: "xin được chết cho tình yêu". Dư luận ấy, loang trong khoa. Là lớp trưởng, lớp có hai đảng viên là tôi và Trư, được ghép với lớp Văn của khóa trước và khóa sau thành một chi bộ. Phụ trách cả khối, là một thương binh có tên là Thú (cũng kỳ thật, bộ mặt cũng có vẻ gì đó, như nhân vật du thủ, du thực trong truyện ngắn của nhà văn Nga Macxim Gorky). Họp chi bộ Thú nghiêm giọng: “Phải kiểm điểm nghiêm túc, tuy là sinh hoạt, nhưng đảng viên phải là tấm gương cho quần chúng noi theo, nhất là sinh viên còn ngây thơ, trong trắng”. Trư “đi đêm” tìm gặp "thăm dò" thái độ của tôi, xem thế nào. Thời ấy chưa "mở cửa" mà hắn đã biết "đi đêm" kể cũng lạ. Tại tôi máy móc, ngu lâu nên tỏ ra gay gắt với những hành động "thiếu văn hóa" của Trư. Đằng nào chúng ta cũng là đảng viên từ chiến tranh đi ra, phải là tấm gương cho các em học sinh phổ thông noi theo chứ. Tôi tỏ vẻ bất bình vì thái độ cà chớn của Trư. Đến lúc sinh hoạt chi bộ, có vài đảng viên "trí thức nửa mùa" không ai có ý kiến gì ráo. Có thể họ “cao thượng” cho đó là thứ vớ vẩn, hoặc họ đã bị Trư mua chuộc mất rồi. Tôi bị Thú xoay cho một trận: “Lẽ ra nghe dư luận phải đứng về phía đảng viên chứ, sao lại có tư tưởng trù dập, đồng lõa với những phần tử xấu, hả?”. Từ một người vô tội, tôi thành kẻ bị luận tội, họ "tha thứ" cho tôi để rút kinh nghiệm (!). Đó là sự cay đắng và thất vọng về con người, sao lại có chuyện đổi trắng thay đen mau lẹ như vậy?
Tôi khoe với Phách, rằng đã đi bộ trên con dốc Bòng Bong dài hơn hai mươi cây số từ Kim Bảng sang tận Chi Lê (Hòa Bình) để về Quân khu bộ học viết báo. Đi qua nông trường Ba Sao, nghe người đời kể bao chuyện lạ vùng Tam Chúc, bồi hồi vì lo sợ mà không kịp ngắm non nước hữu tình nơi đây. Phách nói, quê hắn nằm ở vùng sơn cước ấy đấy, quanh năm xanh tốt, núi non thâm u với bao câu chuyện dân gian huyền hoặc. Tôi nói, tôi đã chèo thuyền trên sông Đáy, đến cả chùa Bà Đanh nữa. Phách không kìm được cảm xúc vì có người biết về quê của hắn, bị non xanh nước biếc hút mất hồn rồi. Hắn gặng hỏi tôi xem có tơ tưởng đến con gái nhà ai ở chợ Liên Sơn không. Không kịp nghe tôi trả lời, Phách cuộn cho hai ống tay áo sơ mi màu cháo lòng lên tận khủy, làm điệu bộ chèo thuyền, cái miệng méo tuôn ra lời ấm áp: “Dòng sông Đáy quê em, sông xanh như lụa”... Không phải riêng tôi mà mấy phòng bên cạnh chết lặng bởi âm hưởng ấm trầm, ngọt ngào, tưởng là mâu thuẫn bởi vẻ ngoài khắc khổ, kỳ dị; chứa bên trong lồng ngực kia là lời vàng thánh thót tuôn trào. Thật khó tin ở cái miệng ấy lại ném ra những câu nói có vẻ độc địa, chát chúa: “Sự bịa tạc của nhà điêu khắc chán đời”...


Bây giờ thì Phách đã có mặt ở đây rồi. Chả là vừa rồi họp lớp, tôi vừa gặp Phách, sau hai mươi năm mà Phách không già đi một chút nào. Cái cung cách nói chuyện vẫn thế. Trong giọng nói mang thổ âm của người bán sơn địa vùng Kim Bảng. Có lần tôi chẳng té ngửa ra vì ở con người rất dị ấy lại phát ra những âm thanh đặc biệt. Hắn tự sự bằng “dòng sông Đáy quê em” - Phải, giọng ấm trầm và rất chuyên nghiệp. Cặp mắt, phát ra những tia sáng như nói với mọi người rằng, các bay chưa biết hết cái tài của Phách này đâu. Mà Phách tài thật. Mỗi khi lớp có sự kiện gì, không nói thì thôi, chứ “có nhời” của Phách cứ sắc lẻm, có gai nhọn trong đó. Làm cho người khác chờn mà rút lui ý chí đi. Phách cũng được các thày giáo chú ý, vì cách nói hùng hồn đó. Phách cởi trần ra mà đọc, ghi chép, đi thư viện. Và tranh thủ thứ sáu, thứ bảy, chủ nhật, Phách nhảy tàu về ga Phủ Lý, rồi cuốc bộ về nhà kịp đi bán rau cho vợ. Phần lớn hắn trốn tàu là chính, kể chuyện lúc có người soát vé phải vào nhà vệ sinh ngồi, buồn cười là ở trong đó cũng có vài ba em rồi... mặc cho bên ngoài gõ cốc cốc đòi mở cửa; hắn kể ra cho cả lớp nghe và hí hố cười, mọi người cười vì sự chân thật của “Nhà triết học chán đời”. 
Giữ lời hứa, tôi lấy xe của cơ quan đưa Phách đi thăm Lam Kinh. Phách nói tử tế, bao giờ hắn chả tử tế, trừ khi tranh luận dồn ép người ta, hai mắt long sòng sọc, tia máu bắn ra.
 - Em là hậu duệ vua Lê mà chưa một lần đến bái lạy Ngài. Hắn cười nửa đùa, nửa thật.
- Con cháu vua Lê ở khắp nước, người ta đã nhóm họp mấy lần đấy thôi! Tôi thật thà nói với Phách - Tiếc quá họ Lê họp mà ông không vào dự. Không hiểu sao, tôi lại nổi máu khoe mẽ: 
- Được mà! Tôi đưa ông lên Lam Kinh, rồi đến thăm doanh nhân họ Lê, làm thay đổi vùng đất này. 
Tôi tệ thế, lúc bí tiền vẫn thường đẽo vào doanh nhân họ Lê này bằng cách “xin” mấy cái quảng cáo. Tham quan và “tiện thể” được lưu lại mời cơm thân mật, cũng là cách khoe về cái xứ mình “chiêu hiền đãi sỹ” tiết kiệm được tiền của cơ quan mà lại được lòng bạn. Biết đâu... có khi là phong bì ấm áp.
Tôi giới thiệu Phách trịnh trọng cùng ông Tổng Giám đốc Mía đường họ Lê, với giọng thật thà:
- Thưa anh! Anh Lê Hữu Phách là bạn học cùng em, nay là Thư ký tòa soạn Tạp chí Sông Đáy… nhà lý luận kinh điển, kiêm nhà sưu tầm văn học dân gian... Tôi cũng hồ nghi về sự giới thiệu của mình “nhà lý luận kinh điển” là gì kia chứ.
- Quý hóa, quý hóa quá... anh đến thăm chúng tôi. 
Không hiểu sao tôi lại bỏ qua cái “giá trị” của “học thuật”, mà nhấn mạnh về “Họ Lê”, thì ông chủ của doanh nghiệp này là họ Lê mà, cái thói thích cầu cạnh xu nịnh “đi xin quảng cáo” xuất hiện…
- Anh Lê Hữu Phách... là “người họ Lê” nhà ta mà anh? Thật khốn cho cái kiểu giới thiệu và cái giọng nhu mì, cầu cạnh đáng ghét.
Phách cũng là một kịch sĩ thiên tài, hắn đã kể một câu chuyện đầy thống thiết.
Tổ tiên tôi là người họ Lê, điều đó là chắc chắn rồi. Phách nhìn diễn giả, thực ra có ba người: tôi, doanh nhân họ Lê và Phách, nhưng hắn không bỏ được thói quen hùng biện, tưởng tượng ra đang đứng giữa đám đông. Mặt đang trơ lỳ kiểu “ký giả”, đang vui thoắt buồn man mác. Phách đỏ mắt, vốn mắt đã đỏ rồi, chỉ cần dụi một tí là rơi giọt giọt thê lương. Ngài có mặt trong hàng ngũ nghĩa quân của Lê Lợi. Ngài có được một vinh hạnh lớn. Biết được bao điều cơ mật dưới trướng khi Lê Lợi cùng các lãnh tụ bàn về cơ mật. Lính gác vòng trong, vòng ngoài không để cơ mưu lọt ra ngoài, ảnh hưởng đến thành bại của từng trận đánh. Ảnh hưởng đến cả công cuộc trừ giặc Minh giành độc lập cho giang sơn, đất nước. Vậy mà ngài được ngồi nghe các tướng lãnh bàn về cơ mưu, nắm được nhất cử, nhất động, tiến thoái của quân ta trong từng trận đánh. Vì sao vậy, ngài là người tâm phúc, lo cho tính mạng của đức vua. Ngài là tên chăn ngựa. Xem kìa, ngài nhỏ thó nom thật là thảm hại. Đứng trước con ngựa chiến, ngài chỉ cao hơn cái bờm của nó. Ban đầu dẫn ngài đến, các quan cận thần ai cũng cười òa, vì nhìn thấy tấm thân nhỏ bé của ngài. Một vị quan to, không nhịn được cười mới phán:
- Kìa, chú thiếu niên, chú có thể bắc ghế mà trèo lên con Hồng Mao được không nào?
Tiếng cười râm ran tán thưởng.
Ngài đến trước mặt đức vua thì lễ: 
- Xin Bình Định Vương cho thần được lĩnh ý của quan lớn dạy ạ!
- Phải đấy, nhà ngươi thử cỡi con Hồng Mao cho ta xem! Đức vua nói giọng tư lự thiếu tự tin.
Tức thì, ngài chạy đến gốc cây lim già túm lấy dây cương buộc ngựa. Vỗ bốp vào mông ngựa, tiếng vỗ chưa kịp lọt vào tai người đã nhảy phốc lên lưng, hai chân kẹp lấy cái bụng thon và chắc chắn như thể cái kìm sắt. Người và ngựa lao đi như mũi tên làm mọi người hoa cả mắt. Tôi cũng hoảng hồn về động tác thị phạm của Phách. Sợ nó làm điều gì quá chớn chăng. Nhưng hắn lấy giọng từ nơi bụng, khoan thai kể.
Hồng Mao là con ngựa thuộc loại quý. Nhưng lại bất kham, từng quật ngã bao gã quản ngựa. Đó là những tên to cao, có sức khỏe hơn người. Bàn tay nổi những sợi gân chằng chịt, tưởng chừng cầm đến vật gì là vật đó sẽ bị vỡ vụn ra bởi sức mạnh. Vỗ vào mông con ngựa là làm cho chúng run lên bần bật, miệng hí vang và chân cào cào xuống làm cho cỏ nát vụn ra bởi sự tức giận. Vậy mà khi trèo lên trên lưng ngựa thì bị chúng quật ngã u đầu sứt trán. 
Tên ngài là Bách, có nghĩa là cây gỗ quý hoặc thông thái bách nghệ, thì cứ hẵng đợi đấy sau này sẽ hay. Phốc một phát, ngài đã nhảy trên lưng con Hồng Mao. Người dán vào cơ thể của ngựa. Như thể chỉ chờ có thế con ngựa tung những bước như nốt nhạc tưng bừng, gõ vào thân của con đường. Rồi nó ngân dài dồn dập và xa dần. Sự uyển chuyển của vó ngựa làm cho mọi người thích thú trầm trồ. Thật ra, tổ tiên của ngài có thâm niên làm nghề “nài ngựa” đến mấy đời. Từ nhỏ, chú Bách đã được cha cho đi theo dắt ngựa. Biết tìm những vệt cỏ ngon của đồng nội, và những thứ cỏ có hương thơm là thức ăn và cũng là thuốc bổ dưỡng cho con ngựa dễ tiêu hóa, và hương cỏ làm cho có sự kết thân của con người và loài ngựa. Bách được bậc tổ phụ khai tâm cho bắt đầu là việc quét dọn phân ngựa. Nếu biết việc, phân ngựa là hương thơm của hoa cỏ, không biết quét dọn đúng lúc thì hương hoa thơm tho mấy cũng thành xú khí. Đó là việc giản dị của sự sống nhưng cũng là bí mật dưỡng sinh của kẻ chăn ngựa, tổ tiên của dòng họ này. Thời buổi loạn, nếu bụng chứa đầy chữ nghĩa được ngồi cùng vua quan trong trướng bàn về thế thời, trận mạc, cầm quân đánh giặc lập công thì được chức quan lớn. Nhưng biết chăn cho ngựa chiến, được hầu hạ vua thì cũng làm nên công hầu như chơi.
Thế là tổ của họ này đã thành kẻ có danh, có phận. Người ta chỉ nhớ tên nhỏ thó dắt ngựa cho đức vua lúc hàn vi làm nên trăm trận trăm thắng. Người có văn chương phú lục thì thêm vào, gọi là Bách Gia cho có dư vị, nhưng thật tình - Cụ tổ cũng là người chăn ngựa mà thôi. Không mang chức tước, tiền hô hậu ủng vậy mà thiên hạ phải nể trọng. Ai muốn dò xem có được hầu chuyện đức vua được hay không cũng phải qua ngài. Ngài cũng được đức vua yêu mến về sự mẫn cán, mát tay chăm sóc cho ngựa quý. Nói không ngoa chút nào, tính mệnh của nhà vua là nằm trong tính mệnh của người chăn ngựa. Thắng trận rõ ràng người chăn dắt ngựa cho vua lập công đầu... Vì ngựa có khỏe mới đưa được đức vua vào chiến trận, tung hoành qua làn tên mũi đạn. Con ngựa cũng như con người biết giúp chủ tướng né tránh mũi tên, thanh kiếm, mũi kích kẻ địch, nhiều khi còn lấy thân che chở cho chủ. Cũng có lúc nghĩ ngợi không lương thiện mà cụ tổ có phần tự kiêu, về vai trò hốt phân, cầm cương chăm bẵm cho giấc ngủ của con ngựa.
Có lẽ cái số của ngài đến lúc mạt vận, xui xẻo hay sao. Hay kiếp trước có làm việc gì thất đức mà lại ngắm vào ngài mà bắt phạt. Như mọi lần sau chiến trận từ quan cho tới quân đều hoan hỷ ăn mừng tiệc tùng. Người chăn dắt ngựa cũng lại chịu thiệt thòi, chỉ lót dạ qua qua là đón cương ngựa từ tay đức vua, nhảy vội lên yên phi cho ngựa ra bến sông tắm, rửa sạch mùi thuốc súng và sát khí của trận mạc. Rồi người và ngựa lại ung dung làm một giấc, mơ đến lập chiến công trở về, hí vang cả rừng núi, thôn xóm và đồng nội.
Con sông này có nhiều nhánh. Từ trên rừng đại ngàn chảy về. Xuống đến đồng bằng, chở phù sa nuôi đồng ruộng và xóm làng miên man. Nuôi những con dân yêu mến đồng ruộng, tha thiết với quê hương và bảo vệ sự bình yên của đất nước mình. Ra đến gần biển cả lại lồng lộn, vẫy vùng về phía bắc non xanh nước biếc. Tắm cho ngựa xong, cũng như mọi lần ngài thích thú moi trong óc hạn hẹp của mình ra những câu ca, truyền qua các đời mà “nài ngựa” vẫn ngâm nga. Có kẻ bảo, là thủy tổ của “hát xoan” sau này, của vùng quê có non nước hữu tình này.
Ngựa là... tâm phúc của ta... a
Băng rừng, vượt núi, ngự sơn hà
Thắng trận về, dầm mình cùng sông Ngọc
Tri kỷ tình thâm rộn khúc ca...
Không hiểu sao, hôm đó ngài uống trộm chút rượu thừa của đức vua. Theo luật bất thành văn là cấm tuyệt đối không ai được đụng vào. Nếm thức ăn của vua chỉ quan thái giám thân cận trước lúc dâng lên người. Nhưng sau ngự của vua là không ai được cái quyền đụng vào đồ ăn thức uống còn thừa đó cả. Nhưng Bách Gia đã đụng vào vùng kiêng kỵ. Hay cái số của ngài đến hồi mạt. Ngài nằm ngủ không còn biết trời đất là gì. Qua một đêm lại qua một ngày sáng bạch. Giật mình mới nhớ ra là mình cho ngựa ra sông tắm. Vừa chợp mắt thôi mà ngựa bay đi đâu mất. Lo sợ làm Bách Gia toát cả mồ hôi, dù lúc này tiết trời đã thu chuyển về đông. Như một kẻ trộm ngài men theo lối mòn về nơi chuồng ngựa. Ngó vào trong chuồng thấy trống không. Đến cây lim vẫn dùng làm nơi cột ngựa, không thấy gì cả. Hỏi một tên chăn ngựa khác, thuộc loại thân thiết, được Bách Gia truyền nghề, hắn bảo, đức vua cũng vừa mới truyền cho quan cận thần tìm nhà ngươi về có việc.
Bách Gia không còn biết cầu cứu với ai. Ngài cứ men theo những nơi mà mình cùng với ngựa từng tung vó. Ngài nghĩ chán chê rồi, nếu không tìm thấy ngựa Hồng Mao, dù có sống cũng không bằng chết. Thà cứ tìm được ngựa rồi về chịu chết để giữ lấy lòng trinh tiết của một kẻ hầu cận có danh có giá. Ngài vượt qua núi non. Hết rừng dày rồi đến rừng thưa. Hết núi đá vôi đến vùng non xanh nước biếc. Có lúc tiêu cực, ngài muốn lao đầu xuống sông để tự tử. Nhưng rồi với sự ru rỉ của loài người ham sống sợ chết, Ngài đến vùng Tam Chúc - Kim Bảng này mai danh ẩn tích, sinh con đẻ cháu đến tận ngày nay. Ngài cấm tiệt con cháu lộ ra tung tích của mình. Nhưng kỳ lạ thay, ai trong dòng họ này cũng đều biết chuyện, họ là hậu duệ “người chăn ngựa cho vua Lê”...
Phách dừng câu chuyện, nó làm cho tôi hoang mang lắm. Tôi không hiểu đó là câu chuyện được tổ tiên Phách kể lại hay hắn bịa ra kể cho doanh nhân họ Lê và tôi nghe. Tôi cũng định dịp này nói toạc ra câu chuyện mà nó âm mưu rủ mấy kẻ cùng quê, xui giáo viên trù úm người trung thực, bạn học thuở nào ở học đường. Nghe chuyện, tôi đâm hoang mang, không tài nào mở miệng ra nói điều gì được nữa.
Doanh nhân họ Lê cho mở tiệc để đãi khách quý. Lại nói với Phách, rằng dịp giỗ họ Lê lần tới, sẽ có giấy mời chú, chả là nó tự nhận là cái chi thứ bao nhiêu hoặc dưới cùng của họ Lê này. Đằng nào tổ tiên chỉ là người chăn ngựa cho vua, là tên tội đồ đã để mất ngựa. Hắn chuốc rượu, và không bỏ dịp khoe tài. Hắn buông giọng ấm áp, hai tay xăn cuộn áo lên làm bộ sắp nhảy trên con thuyền để chèo đò: “... Dòng sông... Ấy... quê em...”.
Tôi cũng bỏ ý định hỏi, chuyện Phách vừa kể là thật hay bịa ra cho thêm mắm, thêm muối ra mắt, nhận “hậu duệ của vua Lê”.
     

Trại sáng tác HNV Nha Trang
                Tháng 11-2019 

                     T.N.T


(*) Sự tráo trở của phương pháp của nhà văn Alejo Carpentier gốc Cuba, là cuốn tiểu thuyết được viết theo phương pháp hiện thực huyền ảo. Cuốn tiểu thuyết này đã đưa Alejo Carpentier trở thành một trong những bậc thầy của văn học tiếng Tây Ban Nha.


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 73
 Hôm nay: 762
 Tổng số truy cập: 14389829
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa