Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Thơ   /   Nhà thơ Mạnh Lê
Nhà thơ Mạnh Lê

Nhà thơ Mạnh Lê (1953 - 2008)
Tên khai sinh: Lê Văn Mạnh
Dân tộc: Kinh
Nguyên quán: Thiệu Trung, Thiệu Hóa, Thanh Hóa
Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Thanh Hóa - 1978
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam - 1999
Huy chương vì sự nghiệp VHNT Việt Nam - 1999
Tác phẩm đã in:
- Tập thơ Tiếng chim trên đá (in chung) - 1984
- Truyện thơ Thần Độc Cước - 1986
- Tập thơ Từ ai đến tôi - 1993
- Truyện thơ Nàng Mứn - 1995
- Tập thơ Một cuộc đời sông - 1997
- Tập thơ Tôi và ai nữa - 2001
- Trường ca Người đánh thức đất đai - 2006
- Trường ca Lửa Hàm Rồng - 2007
- Trường ca Đất nước thuở Hùng Vương - 2008

 

Lê Văn Hưu

        1
Ao quê mùa sen đã tàn
Hương thơm mát vào ngôi đền cổ
Người coi đền lau án thư, nghiên bút
Thắp nhang đặt trước bia đá
“Lê bảng nhãn Tiên sinh Thần bí”.
        2
Chạm tay vào kỷ vật bảy trăm năm
Bụi thời gian phủ mờ bia đá
Trước mắt tôi hiện lên vùng quê nghèo
Ông Hưu ngồi câu trăng, không câu cá
Lắng tiếng nông phu cựa mình ổ rạ
Tiếng cuốc kêu, cá quẫy, trăng tàn
Vỗ khúc đồng dao dạy trẻ con
Gặp ông thợ rèn biếu câu tục ngữ
Mở tai nghe tiếng kêu của sắt cháy
Trong lửa
Tiếng mồ hôi rơi xuống đá mài
Ông thốt nên lời “Có công mài sắt, có ngày nên kim”.
        3
Chớp mắt mười năm sen nở sen tàn
Ông Hưu học cạn chữ thầy, chữ bạn
Đường tới Thăng Long dập dồn vó ngựa
Lê Văn Hưu đầu đội lá sen, chân đi giày cỏ
Đất trời mờ mịt sương giăng
Ngày đi, đêm thức
Đây là nơi Bà Triệu cưỡi voi đuổi giặc
Kia là bãi lau, tập trận của vua Đinh
Dẹp loạn mười hai sứ quân
Đất nước buổi yên hàn
Ngời ngời trước mắt ông thế đất non sông
“Địa linh nhân kiệt”
Rượu quán, cơm mo
Câu kinh câu kệ gửi lại người già
Điệu hát dân ca trao bác lái đò
Đâu cũng làng quê nhà đất, đường cỏ
Hồn thảo mộc gặp đời thảo mộc
Cũng có lúc dừng chân lau nước mắt
Đất thiện căn tội ác có từ đâu?
        4
Thăng Long đón ông như đón trai cày
Hồ sen Văn Miếu ngọt ngào hương thơm
Mừng bảng nhãn Lê Văn Hưu tròn mười bảy tuổi
Đêm ngưng bút nghe tiếng chày giã giấy
Càng nhớ tiếng chày giã đất quê nhà
Không muốn làm quan nhưng chưa thể quay về
Cổ tích, ca dao sao ghi hết mọi điều cho lịch sử
Hồn dân tộc ẩn tàng nơi thôn dã
Người khuất lưu tên làm
Đức Thánh - Thành Hoàng
Lê Văn Hưu nâng bút trước rạng đông
Viết những trang đầu tiên tập
“Đại Việt sử ký”.
        5
Bảy trăm năm thăng trầm bao còn mất
Ao sen quê vẫn nở ngọn bít sen
Bia Thần Bí bom vùi dưới cỏ xanh
Cỏ quấn bia vẫn tốt tươi hồn đá
Con cháu dựng bia hướng về cội nguồn
Tên ông Hưu thành tên phố, tên trường
Bìa sách “Đại Việt sử ký toàn thư”
Không ghi tên ông
Họ mạc lưu tên ông trong gia phả
Dân làng gói tên ông vào lá sen.

               

Tổ ấm

        (1)
Con ơi cha đã gói núm ruột của con khi con cất tiếng khóc chào đời
Từ bệnh viện mang về thành phố
Ô đất nhỏ nhoi, chưa đủ chỗ cho một vòm xanh lá
Núm ruột của con là cái rễ cây
Đêm đêm cái rễ cây cựa quậy trong đất.

Bà nội đã làm thủ tục chôn rau cho con
Như ngày trước bà từng chôn núm ruột của cha nơi góc vuờn xa ngái
Góc vườn ấy giờ đã xanh vòm khế
Tuổi thơ cha từng say truyện cổ tích cây khế
Từng mong chim phượng hoàng về ăn khế để đưa cha tới đảo vàng
Cha đã đi mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm rồi dừng lại ở đây
Dưới tán lá một vòm cây phố
Cha đã gặp đảo vàng
Đảo vàng ấy là con!
        (2)
Sáng mai này cha thả một cánh chim
Cánh chim này cha nuôi từ ngày thương mẹ
Cánh chim thư của cha, con chim bồ câu ông nội cho cha
Nó là người đưa thư cần mẫn
Cánh chim thư rời tổ, lượn một vòng quanh trời thành phố
Đôi lúc dừng chân ở một ngọn cây cao, một chóp núi cao
Xoãi cánh vươn bóng mình xuống dòng sông lấp lánh
Con sông bao bọc thành phố quê hương như tằm bọc kén
Sông phố nhận nước ba nguồn: sông Mã, sông Chu, sông Đào nhà Lê
Cánh chim thư đã nhận ra:
Nếu xứ Thanh là tấm da trâu thì thành phố là núm vú.
Nếu xứ Thanh là mặt trống đồng thì thành phố là nơi dùi chày vỗ trống
Chim thư chớp cánh, chim thư say…

Chim ơi, sẽ có ngày ta đưa chim bay theo một đường bay khác
Để chim biết biển khơi xưa từng ở nơi này
Chim Trống Mái - Sầm Sơn đã bay đi từ đây, nơi có hòn Vọng Phu vẫn còn tươi thớ đá
Chim sẽ gặp hình hài tổ tiên của đất bốn vạn năm
Đã trầm tích dưới chân núi Đọ
Ở đó có các vua Hùng đã nấu đồng để đúc đồng mặt trời bằng nồi đất
Chim được nghe tiếng hót chim Lạc
Tiếng tụ hội muôn giọng các loài chim
Bình minh này chim mang thư về gốc khế
Góc vườn xanh làng cỏ
Để thay ta lạy cái bếp nấu đồng, cái chày giã đất
Những kỷ vật đêm đêm ngời lên như cổ tích
Những tô tem văn hóa các vua Hùng để lại cho cháu con
Làng Chè, làng nghề quê kiểng của con
Trước khi cắm nén nhang ngưỡng vọng
Con đã nguyện là nén hương
Cháy hết chân trước bàn thờ tổ
Bàn thờ ấy chưa thể là cổ sử
Con lạy tạ tổ tiên
Con mang nắm tro than
Tôn tạo bát hương dưới vòm cây mái phố
Như chim thư từng rút sợi rơm vàng về đây quấn cổ
Tổ ấm đời người đâu chỉ đất chôn rau…
        (3)
Em đi vừa tròn chín tháng mười ngày
Con ta ra đời
Anh lại nhớ đêm ở ngã ba Giàng
Em thắp nén hương lạy ông thần núi.

Ông Vồm, ông Bưng, núi Rồng, núi Nưa
Sông Mã, sông Chu quay chung rốn nước
Điệu hò "huầy dô" chèo ai vỗ nhịp
Anh dắt tay em chạy ra bến sông…

Anh chẳng mong mình là Chử Đồng Tử
Cha mẹ nuôi ta khôn lớn nên người
Anh thấm vào em nắng nôi đời mẹ
Em thấm vào anh nhọc nhằn đời cha
"Dô tả, dô tà sông Mã quê ta"
Anh là thỏi đồng của làng tro than
Em nõn nà xinh dịu dàng nét phố
Thì anh Đồng Tử của em đêm nay
Sông Chu lặng thầm, sông Mã cuồng nhiệt
Sông đã hòa nhập với mình em ơi!

Đã thấm tận cùng hương cỏ sông quê
Bừng nở trước anh chùm sao thành phố
Dằng dặc đời sông sóng chìm sóng nổi
Đất nước bao đời gươm giáo chiến tranh
Có đôi chim hạc cất tiếng kêu đêm
Dắt rúi cánh bay, về phía Hạc Thành
Thị xã của em mai là Thành phố
Em là chủ nhân, em đón anh về 
Đời anh tro than, đời em dịu ngọt  
Giọt máu, lời yêu, sông nước, trăng thề 
Em dắt tay anh đuổi theo chim hạc
Tổ ấm đời mình…
                           Thành phố là quê…
                               Tháng 5-1999 

 

Quà của người lính đảo

Bạn về phép con hái chùm quýt đảo
Nhờ bạn mang về gửi mẹ quê xa
Quýt đảo là tên các con tự đặt
Cũng thơm ngon như quýt quê nhà.

Chùm quýt còn xanh mẹ khen quýt ngọt
Hái chùm chín con lo quýt rụng dọc đường
Con biết mẹ sẽ nâng niu chùm quả
Đặt lên bàn thờ hương khói trước khi ăn…
Mẹ lại khen các con mẹ giỏi
Giữa đảo đá trùng khơi vẫn trồng được cây vườn
Không phải quýt con trồng đâu, thưa mẹ
Quýt có trước ngày lính đảo đến canh
Chúng con sống đêm ngày canh giữ đảo
Cây quýt như tờ lịch báo mùa
Mùa hạ lá chồi, mùa thu lá rụng
Trái chín vàng là xuân tới, đông qua.

Mùa quýt chín lòng nôn nao nhớ mẹ
Mùa đông qua tóc mẹ có bạc thêm
Con biết mẹ sẽ dành chùm quả
Gửi cho người bạn gái con thương…

Và em nữa em cũng khen quýt ngọt
Giọt nhớ thương đọng ở trái cây này
Em đa cảm mà anh thì vụng dại
Lời yêu là quả quýt đảo gửi em đây!

Con chợt thấy mùa xuân này đến sớm
Từ chùm quả chín vàng trên tay mẹ, mẹ ơi!


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 192
 Hôm nay: 10944
 Tổng số truy cập: 13034697
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa