Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Văn hóa   /   Từ một bản người Thái dưới núi Chí Linh   
Từ một bản người Thái dưới núi Chí Linh   

Từ một bản người Thái dưới núi Chí Linh   

                             HÀ HUY TÂM     

1. Do công việc chuyên môn ở Viện nghiên cứu ứng dụng văn hóa truyền thống và kiến trúc xây dựng Việt Nam, tôi có may mắn thường xuyên được đến với huyện Lang Chánh, vốn là Châu Lang trong lịch sử cổ xưa của xứ Thanh, Đại Việt. Trong những chuyến hành trình lên Lang Chánh, khi thì tôi được đi điền dã với nhóm chuyên gia nghiên cứu về văn hóa tâm linh của GS.TS Bùi Quang Thanh, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam; khi thì tham gia “thâm nhập thực tế” về Trại viết kịch bản phim lịch sử “Xứ Thanh - miền địa linh nhân kiệt”, với đoàn văn nghệ sĩ điện ảnh do PGS.TS, Họa sĩ Đỗ Lệnh Hùng Tú - Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam dẫn đầu; lại có khi được “tháp tùng” ca sĩ Trọng Tấn cùng nhóm làm phim truyền hình lên “cửa gió” của thác Ma Hao, quay clip ca nhạc… Những dịp như vậy, tôi luôn có cơ hội tiếp cận, chiêm ngưỡng nhiều danh tích, linh tích văn hóa lịch sử, ôm chứa bao huyền thoại say lòng, về công lao của các bậc anh hùng hào kiệt và sự đóng góp chí tình, chí nghĩa của đồng bào các dân tộc Châu Lang - Lang Chánh trong công cuộc bảo vệ và dựng xây quê hương, đất nước. Trong số các địa chỉ này, có một bản dân tộc Thái, nơi mà hầu như trong mọi chuyến đi, tôi đều được ghé thăm. Ghé thăm rồi vào danh tích pho tượng trong miếu Nghĩa Quân, dừng lại giây lâu, thắp nhang chiêm bái, trước khi đi tiếp đến các địa chỉ khác trong kế hoạch hành trình. Pho tượng trong miếu Nghĩa Quân là hình ảnh chú chó săn lực lưỡng bên cạnh ban thờ nghĩa sĩ Lam Sơn, với tư thế hiên ngang quả cảm, được bà con các dân tộc bản Năng Cát, xã Trí Nang và du khách thập phương hưng công, tạc bằng đá quý, đặt bên góc phải dưới bàn thờ lớn, cũng được chạm khắc bằng thứ đá nguyên khối rất quý…
2. Có thể nói rằng, trên đất Châu Lang - Lang Chánh, đặc biệt là vùng núi Pù Rinh (Pù Rinh - Tiếng dân tộc Thái có nghĩa là Chí Linh hoặc Linh Sơn), cứ xới lên một tấc đất, nạy lên một tảng đá là bắt gặp dấu ấn lắng đọng trầm tích văn hóa, lịch sử ngàn đời của ông cha như cách một nhà thơ rất nổi tiếng đã viết: “Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất/ Những buổi ngày xưa vọng nói về” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi). Thế nên, trước khi kể câu chuyện điển tích pho tượng đã dẫn, tôi muốn dành ít dòng, nói về bản Năng Cát, xã Trí Nang, nơi tọa lạc miếu Nghĩa Quân, tại đầu lối mòn dẫn lên “cửa gió” của đỉnh thác Ma Hao.
Sau khi đánh thắng trận đầu rất oanh liệt bằng kế mai phục, chém ba ngàn thủ cấp trong hai đạo quân thủy bộ 15 ngàn tên của giặc Minh do thái giám Sơn Thọ và giám binh Mã Kỳ chỉ huy tại vùng rừng núi Lạc Thủy (vị trí của huyện Bá Thước giáp với huyện Cẩm Thủy), Bình Định Vương Lê Lợi bèn rút tất cả nghĩa quân về núi Pù Rinh - Chí Linh để bảo toàn lực lượng non trẻ, tướng sĩ chỉ mới chưa đầy hai ngàn người và hơn chục thớt voi.
Cay cú với thảm bại Lạc Thủy, đám tướng lĩnh giặc đóng ở thành Tây Giai liền đưa hàng vạn quân đến vây bọc núi Pù Rinh ba đợt, mỗi đợt kéo dài trong nhiều tháng. Bình Định Vương phải chia nghĩa quân thành nhiều tốp nhỏ, phân tán ra khắp các vùng lân cận. Bản thân Ngài cũng chỉ giữ bên mình một số thủ túc, mưu sĩ thân tín, vừa phải di chuyển và mai phục đánh giặc, tránh giặc, vừa phải tản vào dân chúng ở Châu Lang, Châu Thường… để gây dựng cơ sở, bảo toàn binh mã trong điều kiện vô cùng cam go mà trong “Bình Ngô đại cáo”, quân sư Nguyễn Trãi đã viết: “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần/ Lúc Khôi Huyện quân không một đội”. 
Một lần, vào cữ đông chí đang kỳ rét đại hàn căm căm, Bình Định Vương cùng bốn năm nghĩa sĩ bị giặc truy đuổi chí chết. Đến lúc trời sập tối, Ngài và thuộc hạ phải dạt vào một bản người Thái bên cạnh con suối, nước đã cạn trơ lòng và ngổn ngang những đống đá lạnh ngắt, gồ ghề. Cả nhóm nghĩa quân, ai ai cũng bụng đói, cật rét, sức kiệt. Lê Lợi phải cùng các anh em nghĩa sĩ vào nhà dân, xin được ít gạo, lại mượn được một cái năng (tức là cái nồi hai, lớn hơn cái niêu, nhỏ hơn cái nồi ba) để thổi cơm. Mùa khô, lòng suối trơ đáy, thỉnh thoảng mới có một vũng nước nhỏ nông choèn, trời lại tối nên anh em nghĩa quân vét mãi mới được ít nước, vội vã nhóm lửa, thổi cơm, cứu đói. Khi cơm chín, mọi người ăn thấy có cát sàn sạt trong miệng nhưng ai cũng cố nuốt bằng hết để có sức đi tiếp, ra khỏi vòng vây truy đuổi của giặc. Trước khi rời, Bình Định Vương đã đặt cho bản làng người Thái đã cho gạo mượn nồi thổi cơm này cái tên là bản Năng Cát (tức là cái năng nấu cơm, có cát lẫn vào) để ghi nhớ một thời hàn vi, cơ nhỡ. Tên gọi bản Năng Cát trường tồn đến tận ngày nay. Bản Năng Cát nằm dưới chân thác Ma Hao, gắn liền với sự tích pho tượng chú chó săn bên cạnh chiến binh nghĩa sĩ Lam Sơn, được dựng ở ngôi miếu thiêng tại chân thác, phía Tây Nam chân núi Pù Rinh - Chí Linh.
3. Ma Hao là ngọn thác lớn nhất của hệ thống sông Cảy được bắt nguồn từ đỉnh Pù Rinh - Chí Linh, nơi có độ cao khoảng hơn 1.300m so với mực nước biển. Diện tích lưu vực thác Ma Hao rộng trên 178ha, bao gồm thác nước, suối và rừng cây ven bờ… 
Ma Hao (phát âm chính xác theo tiếng của đồng bào Thái là Ma Háo) có nghĩa là chó ngạp (chó cắn). Hai từ “Ma Hao” (Ma Háo) gắn liền với sự tích pho tượng ở miếu Nghĩa Quân dưới lối mòn vào chân thác.
Sự tích này cũng ghi dấu ấn trong những năm tháng nằm gai nếm mật, xây dựng lực lượng nghĩa quân Lam Sơn ở núi Pù Rinh - Chí Linh của Bình Định Vương, Lê Lợi. Đó là câu chuyện, có một lần vào mùa mưa, Ngài cùng các nghĩa sĩ từ vùng núi Lũng Nhai, Châu Thường (tức huyện Thường Xuân ngày nay) trở về Chí Linh thì bị giặc phát hiện, bao vây, truy bắt. Trong lúc nguy cấp, nhóm của Bình Định Vương cùng chú chó săn vẫn phải dụng kế, vừa mai phục, vừa đánh chặn để mở lối bí mật, rút về căn cứ. Đang khi tiến thoái gặp khó khăn muôn nỗi thì họ bị một con suối rộng, nước chảy xiết dưới chân thác chắn ngang. Lê Lợi và các nghĩa sĩ vội trầm mình xuống nước, bơi qua vực thác để thoát hiểm nhưng con chó săn của Ngài thì cứ một mực đứng vững trên bờ, ngoe nguẩy đuôi như chào chủ rồi lùi ngoắt lại, lao phốc về phía sau, dũng mãnh xông thẳng vào đám giặc và lũ chó ngao của chúng đang ào tới, cắn xé rất quyết liệt, khiến lũ tướng sĩ giặc và lũ chó ngao kinh khiếp, bỏ chạy mất vía. Nhờ có được khoảnh khắc ấy, Bình Định Vương cùng các nghĩa quân vượt qua thác nước an toàn.
Từ bên kia chân thác, thấy bọn giặc đã rút, Bình Định Vương cùng toán nghĩa quân liền bơi qua suối, quay lại tìm chú chó săn quả cảm và trung thành. Tìm mãi, các nghĩa sĩ mới thấy chú mình đầy thương tích, đang mệt mỏi lết từng bước đến bờ thác nhưng cái đuôi vẫn cố ve vẩy tỏ ý mừng. Rồi bỗng thấy chú lả đi, chân sau khụy xuống, mồm chỉ còn đủ ngáp, ngáp được mấy cái trước khi gục hẳn.
Bình Định Vương bế hẳn chú chó săn lên. Ngài rỏ nước mắt thương tiếc rồi cùng các nghĩa sĩ tìm chỗ đất bằng, vuông vức gần chân thác nước chôn cất chu đáo chú chó săn đã quên mình tấn công giặc dữ cứu chủ, như chôn cất một chiến binh tử nạn của nghĩa quân Lam Sơn. Từ bấy, thác nước này có tên gọi theo tiếng của người Thái là Ma Háo (nghĩa là chó ngạp). Về sau dân gian đọc chệch đi, thành Ma Hao…
Từ miếu Nghĩa Quân dọc theo bìa rừng phía Đông dãy Pù Rinh, đi bộ chừng 500m thì lên “cửa gió”, là đỉnh của thác Ma Hao. Từ “cửa gió” nhìn xuống toàn cảnh lưu vực thác nước là một bức thiên nhiên sơn thủy tuyệt đẹp: Những khối đá lớn màu trắng bạc được mài chuốt bởi thời gian và dòng chảy tạo nên không biết bao nhiêu là hình thù kỳ thú, chỗ thì như một đàn voi đang quỳ phục, một đôi giao long chầu mặt nguyệt; nơi thì các hòn đá chồng xếp lên nhau giống như hình khối Trống Mái, chim phượng, chim loan; chỗ thì như những chùm quả trứng khổng lồ đủ mọi kích thước xen lẫn vào nhau, chỗ thì như một tòa non bộ phối cảnh hài hòa…
Vượt qua “cửa gió” phía bên phải là dòng suối Rượu, thuộc xã Giao Thiện, dân địa phương còn gọi là Huối Láu (tiếng Thái có nghĩa là suối rượu). Tương truyền, sau khi diễn ra hội thề Lũng Nhai, trai tráng và kẻ sĩ khắp nơi đổ về ứng nghĩa. Nhân dân quanh vùng vô cùng mừng vui, phấn chấn đến dâng mấy vò rượu quý, Bình Định Vương cho đổ cả xuống đầu nguồn ngọn suối để quân dân cùng chung chén hoan hỉ. Sự tích này, sau khi đất nước thoát khỏi Bắc thuộc lần thứ hai (1407-1428), Nguyễn Trãi đã viết thành một câu thuộc loại hay nhất trong “Bình Ngô đại cáo”: “Tướng sĩ một lòng phụ tử/ Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Bên cạnh suối Láu còn có suối Lá (Lá tiếng Thái gọi là Huối Vớ) chảy qua. Tương truyền đây là nơi, trong những ngày “nằm gai nếm mật”, quân sư Nguyễn Trãi đã cho người dùng kim nhúng vào mật rồi chằm lên các lá cây dòng chữ “Lê Lợi vi Vương, Lê Lai vi Tướng, Nguyễn Trãi vi Thần”. Kiến rừng cứ theo vết chằm, ăn mật, đục thủng lá cây để lại dòng chữ đầy biểu tượng tiên tri, khiến cho nghĩa quân và nhân dân khắp miền tin rằng, trời đã kiến tạo thiên mệnh cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, khiến ai ai cũng có thêm sức mạnh và chí khí dốc lòng đánh giặc.
 Để rồi từ đây, nơi có bản Năng Cát, có thác Ma Hao, có suối Rượu, suối Lá… Nghĩa quân Lam Sơn được đồng bào các dân tộc đùm bọc, che chở, bồi đắp, phát triển quân lương; chải gió gội mưa; nằm gai nếm mật, ba lần đánh lui, đánh tan các cuộc càn quét của hàng vạn binh mã giặc; bảo vệ vững vàng căn cứ Pù Rinh - Chí Linh rồi tiến vào giải phóng Nghệ An, Thuận Hóa; tiến xuống giải phóng Tây Đô, làm bàn đạp tấn công ra Bắc với các trận thắng oanh liệt ở Tốt Động, Chúc Động, Xương Giang, Bình Than, Chi Lăng, Lê Hoa… và cuối cùng giải phóng Đông Đô - Thăng Long, kết thúc cuộc kháng chiến mười năm, đem lại nền tự chủ cho Đại Việt, một đất nước “bốn phương biển cả thanh bình” (Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi). 
4. Bản Năng Cát ngày nay thuộc xã Trí Nang là một xã lớn trên vùng núi cao của Châu Lang - Lang Chánh. Diện tích tự nhiên của xã rộng đến 70km. Đây là một bản của đồng bào dân tộc Thái còn giữ nguyên được những nếp nhà sàn truyền thống từ cổ xưa, ẩn chứa nhiều nét văn hóa bản địa độc đáo cùng các sinh cảnh đặc sắc muôn màu. Hiện nay, bản Năng Cát có 124 hộ gia đình, trong đó có tới 122 hộ vẫn ở trong những ngôi nhà sàn - một không gian kiến trúc truyền thống hiếm thấy ở các bản làng miền núi nằm cận kề quốc lộ 15, tuyến đường nối xứ Thanh với nước bạn Lào qua cửa khẩu Yên Khương.
Năng Cát đang trở thành một trung tâm du lịch văn hóa - lịch sử - sinh thái đầy tiềm năng của không riêng Châu Lang - Lang Chánh mà cả miền Tây Thanh Hóa. Tại đây, Công ty cổ phần du lịch Ma Hao đã được thành lập. Bên cạnh những tuyến du lịch lên “cửa gió”, lên suối Rượu, suối Lá lên cổng trời danh thắng ruộng bậc thang Yên Khương… một tuyến du lịch lên độ cao 1300m, đỉnh Pù Rinh - Chí Linh cũng bắt đầu đi vào hoạt động. Tuyến du lịch này mở ra cơ hội để người dân bản địa và du khách thập phương đến với Châu Lang - Lang Chánh được lên chiêm bái không gian mà Bà Chúa Thượng Ngàn - Lê Mại Đại Vương đã hiển thánh phù giúp nghĩa quân Lam Sơn trong suốt thời gian ẩn mình, đánh giặc. Được biết, tỉnh Thanh Hóa đã có kế hoạch cấp vốn để cùng huyện Lang Chánh mở rộng, trải nhựa con đường lên đỉnh Linh Sơn dài 10km. Đây là cơ hội đầy triển vọng để đỉnh Pù Rinh - Chí Linh trở thành một địa chỉ du lịch văn hóa lịch sử đầy tiềm năng và hấp dẫn.
                                                                                           H.H.T


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 52
 Hôm nay: 2796
 Tổng số truy cập: 13973776
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa