Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Văn hóa   /   Lễ hội văn hóa truyền thống của vùng đất Lam Sơn  
Lễ hội văn hóa truyền thống của vùng đất Lam Sơn  

Lễ hội văn hóa truyền thống của vùng đất Lam Sơn   

LÊ XUÂN SOAN  

Trên đất nước ta, các di tích lịch sử - văn hóa thường gắn với các lễ hội tôn vinh, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa. Chính những giá trị văn hóa của lễ hội đó góp phần tôn vinh, lan tỏa và giữ gìn giá trị của các di tích lịch sử - văn hóa. Các lễ hội như Lễ hội Đền Hùng (Phú Thọ), Hội Gióng (Hà Nội), Hội Đền Đức Thánh Trần (Nam Định) đã trở thành những lễ hội văn hóa lớn.
Trong dòng chảy lễ hội truyền thống xứ Thanh, cùng với Lễ hội Mai An Tiêm (Nga Sơn), Lễ hội Đền Bà Triệu (Hậu Lộc), Lễ hội Đền Lê Hoàn (Thọ Xuân)… Lễ hội Lam Kinh đã trở thành một lễ hội có quy mô lớn, thu hút ngày càng đông đảo đồng bào các dân tộc không chỉ trong tỉnh, mà còn từ nhiều vùng miền khác.
Trong những giá trị văn hóa của Lam Kinh, cần khẳng định rằng Lễ hội truyền thống Lam Kinh là một thành tố văn hóa đặc sắc, được hình thành và phát triển từ chính vùng đất lịch sử này. Đây là một nội dung quan trọng, là thành tố của văn hóa Lam Kinh song lại ít khi được nhắc đến như là những giá trị văn hóa tiêu biểu của Lam Kinh.
Lễ hội Lam Kinh có nguồn gốc từ các nghi lễ của triều đình nhà Lê trong các kỳ vua Lê hạ quy Lam Sơn bái yết sơn lăng và tế tự ở điện miếu Lam Sơn. 
Sách Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi chép nhiều chuyến về Lam Sơn của các vị Hoàng đế thời hậu Lê. Đặc biệt là chuyến hạ quy Lam Sơn và tổ chức diễn xướng của Hoàng đế Lê Nhân Tông.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, năm 1455 Hoàng đế Lê Nhân Tông về Lam Sơn tế lễ, đặt tên cho các điện ở Lam Sơn. Nghi thức tế lễ gồm: tế tẩm miếu dùng bốn con trâu, đánh trống đồng, quân lính hò reo hưởng ứng. Về nhạc võ thì múa nhạc “Bình Ngô phá trận”. Văn thì múa nhạc “Chư hầu lai triều”.
Cùng với việc tổ chức tế lễ, tưởng niệm tiên đế của vương triều, các chi họ Lê ở Lam Sơn và các dòng họ được ban “Quốc tính”, những dòng họ có người là “khai quốc công thần” cũng tổ chức tế lễ, tưởng niệm Lê Thái Tổ. Cho đến khi triều đình không tổ chức tế lễ ở Lam Kinh nữa thì các chi họ Lê tổ chức giỗ Tổ ở Lam Kinh đồng thời Lễ hội Lam Kinh do dân tổ chức cũng dần hình thành và phát triển.
Từ lễ hội cung đình của vương triều, do những bước thăng trầm của các  triều đại, Lễ hội Lam Kinh đã trở thành lễ hội văn hóa truyền thống trong hệ thống lễ hội tôn vinh anh hùng dân tộc ở Việt Nam. 
Khác với nhiều lễ hội truyền thống diễn ra vào mùa xuân trên khắp đất nước, Lễ hội Lam Kinh được tổ chức vào mùa thu, vào ngày mất của Lê Thái Tổ: ngày 22 tháng tám âm lịch.
Chính hội Lam Kinh được tổ chức trong 3 ngày với nhiều nghi lễ và hoạt động văn hóa đặc sắc.
Tục ngữ của người Việt (Kinh) Thanh Hóa có câu: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi, hăm ba giỗ Mụ Hàng Dầu”.
Người Mường ở xứ Thanh thì nói: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lưới, hăm ba chôi pớơi, chôi chởở” (tiếng Mường).
Ngày 21 tháng tám âm lịch là ngày giỗ của Lê Lai. Thật ra, ngày 21 tháng tám âm lịch không phải là ngày mất của Lê Lai mà là ngày làm giỗ Lê Lai theo di huấn của Lê Thái Tổ.
Các tài liệu chính sử cho biết: Lê Lai là người dân tộc Mường (Mường gốc), là người bạn láng giềng của Lê Lợi, ông đã có mặt trong hội thề Lũng Nhai, cả gia đình đã tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ khi còn trứng nước. Các con của Lê Lai là dũng tướng trong Lam Sơn, đã có công với khởi nghĩa Lam Sơn và chủ tướng Lê Lợi. Lê Lai là người trong lúc hiểm nguy đã “liều mình cứu chúa”, giúp Lê Lợi thoát nguy hiểm và đã bị giặc Minh giết hại.
Cảm phục trước tấm gương hy sinh cao cả và anh dũng của Lê Lai, Hoàng đế Lê Lợi sau khi lên ngôi đã làm bản Lai công thệ từ thề ghi công của Lê Lai: “… Chúng bay đồng thời nhớ công Lê Lai, hết lòng mà đổi áo cho Trẫm chẳng tiếc mệnh, mà chịu chết thay Trẫm, công đức ấy cực cả thay. Trẫm đã táng Lê Lai ở trong đền Lam Sơn để mai sau thời cho con cháu Lê Lai ở hết lòng cùng con cháu Trẫm… cho đến con cháu Trẫm mà quên ơn nhà Lê Lai thời cho trong thảo điện này nên rừng, trong điện này nên nước. Nhược chúng bay nhớ bằng lời Trẫm nguyện, thời cho con cháu Trẫm cùng con cháu chúng bay được hưởng phú quý, dù ai hay nhớ lời trẫm ấy nên đao binh, chúng bay cũng nhớ lời Trẫm dạy cho hay…”.
Theo di huấn của Lê Lợi truyền cho con cháu phải làm giỗ Lê Lai trước khi làm giỗ ông. Vì Lê Lợi mất ngày 22-8 âm lịch nên giỗ Lê Lai được tổ chức vào ngày 21-8, tức là “trước một ngày”. Đây cũng là ngày chính thức khai hội Lam Kinh. Trong ngày này phần chính lễ được tổ chức tại đền Tép (xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc), quê hương của Lê Lai, phía sau núi Dầu, cách trung tâm Lam Kinh hơn 2km.
Ngày 22-8 âm lịch là ngày giỗ Lê Lợi. Chính lễ được tổ chức trọng thể tại Khu di tích Lam Kinh.
Ngày 23-8 âm lịch là ngày giỗ Mụ hàng dầu. Theo truyền thuyết, Mụ hàng dầu là người ban đêm đã thắp ngọn đèn dầu trên núi Dầu (gần trại Như Áng của Lê Lợi) làm tín hiệu cho các nghĩa sĩ tìm về Trại Như Áng tụ nghĩa. Trong khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, giặc Minh biết chuyện đã tìm giết Mụ hàng dầu. Địa danh núi Dầu được gắn với truyền thuyết này. Để tưởng niệm người dân vô danh đã góp chút “ánh sáng” cho nghĩa quân Lam Sơn trong buổi đầu tụ nghĩa nên sau khi làm giỗ Lê Lai và Lê Lợi, nhân dân đã làm giỗ Mụ hàng dầu.
Chỉ nói đến thời gian, lịch trình tổ chức Lễ hội Lam Kinh từ ngày giỗ của Lê Lai, Lê Lợi đến giỗ Mụ hàng dầu đã cho thấy tính nhân văn của lễ hội Lam Sơn. Lê Lợi không quên ơn người đã cứu mình nên đã truyền cho con cháu làm giỗ Lê Lai trước một ngày và nhân dân cũng không quên quần chúng vô danh đã hy sinh vì nghĩa lớn nên đã làm giỗ Mụ hàng dầu sau khi làm giỗ Lê Lai và Hoàng đế Lê Thái Tổ.
Điều đặc biệt của Lễ hội Lam Kinh là ở chỗ sau khi tan lễ hội thì trời mưa. Theo cách giải thích của tâm thức văn hóa dân gian thì điều này rất linh nghiệm, không mưa lớn thì mưa nhỏ, thậm chí có năm chỉ mưa “lấy lệ” nhưng không thể không có mưa. Trời mưa là để “rửa” đền hết “bụi bặm”, để “trôi lá bánh”, sạch rác sau một kỳ lễ hội để chuẩn bị cho lễ hội sau và phải chăng cũng là để tỏ lòng thương xót với một người anh hùng đã dũng cảm hy sinh vì nghĩa lớn.
Tục “mưa giã hội” sau Lễ hội Lam Kinh là mô típ trong nhiều lễ hội văn hóa dân gian ở Việt Nam.
Lễ hội Lam Kinh bao gồm hai phần: phần lễ và phần hội.
Phần lễ: Nội dung chủ yếu là tụng xưng công đức, tôn vinh sự nghiệp của Lê Thái Tổ “Bình Ngô khai quốc”, ca ngợi sự hy sinh cao cả của Trung Túc Vương Lê Lai đã “liều mình cứu chúa”.
Dưới triều Nguyễn, Lễ hội Lam Kinh chuyển dần về miếu thờ vua Lê ở tỉnh lỵ Thanh Hóa mới, việc chủ trì tế lễ do quan đầu tỉnh tiến hành. Từ lễ hội cung đình của vương triều Lê, Lễ hội Lam Kinh đã dần dần trở thành lễ hội văn hóa dân gian. Đây là cơ sở để các yếu tố của văn hóa dân gian ngày càng có điều kiện phát triển cùng lễ hội.
Sau phần chủ tế là đến phần hành lễ của các chi họ Lê, các bản hội và nhân dân dâng hương.
Phần hội: Là các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, tổ chức các trò chơi, trò diễn, trò thi dân gian.
Tại khu vực đền Tép, thờ Trung Túc Vương Lê Lai, theo truyền thống của dân tộc Mường, dân bản tổ chức nhiều trò chơi dân gian, hát múa truyền thống của dân tộc Mường.
Tại khu trung tâm Lam Kinh có nhiều hình thức diễn xướng và hát múa dân gian, trong đó đặc sắc là việc trình diễn tái hiện lại khúc nhạc múa cung đình: “Bình Ngô phá trận”, “Chư hầu lai triều” đã được diễn trình dưới vương triều Lê Nhân Tông và hát đối đáp nam - nữ.
Điệu vũ nhạc “Bình Ngô phá trận” và “Chư hầu lai triều” đã thất truyền. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng “vang bóng” của nó có thể  còn được lưu truyền qua các trò diễn dân gian ở vùng quanh Lam Kinh. Các thế hệ con em Thanh Hóa đã khôi phục trò diễn này, hiện tại đã trở thành trò diễn hấp dẫn trong các kỳ lễ hội.
Hát đối đáp nam - nữ vốn là một loại hình dân ca giao duyên phổ biến ở xứ Thanh đã được tiến hành trong các lễ hội.
Nét đặc sắc trong nội dung lời hát đối đáp nam - nữ ở đây là sự vận dụng sáng tạo lời hát với nội dung ca ngợi khởi nghĩa Lam Sơn và Hoàng đế Lê Thái Tổ rất sâu sắc. Ví dụ:
Nữ: Em đố anh từ Nam chí Bắc/ Sông nào là sông sâu nhất/ Núi nào cao nhất nước ta/ Anh mà giảng được cho ra/ Thì em kết nghĩa giao hòa cùng anh.
Nam: Sâu nhất là sông Bạch Đằng/ Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan/ Cao nhất là núi Lam Sơn/ Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra (Ca dao).      
Theo mạch nguồn truyền thống, Lễ hội Lam Kinh được duy trì dưới thời Nguyễn và ngày nay đang được kế thừa, sáng tạo. Các cấp, các ngành từ tỉnh đến huyện, xã, phường chuẩn bị và tiến hành lễ hội theo kịch bản lễ hội của ngành văn hóa.
Lễ hội Lam Kinh hiện nay đã thu hút hàng chục nghìn người trên khắp các vùng. Trẩy hội Lam Kinh đã trở thành nét văn hóa trong đời sống tinh thần của nhân dân.
Cùng với việc trùng tu, tôn tạo khu di tích, Lễ hội Lam Kinh đã trở thành lễ hội văn hóa lớn nhất ở tỉnh Thanh Hóa và là một trong những lễ hội lớn trong khu vực Bắc Trung Bộ. Trên những cung bậc khác nhau, lễ hội lịch sử truyền thống Lam Kinh có thể so sánh với những lễ hội lịch sử - văn hóa lớn trên đất nước Việt Nam.
Văn hóa Lễ hội Lam Kinh không chỉ khẳng định giá trị văn hóa của khu di tích Lam Kinh, làm cho lễ hội văn hóa truyền thống xứ Thanh thêm đa dạng, góp phần quan trọng vào việc giáo dục truyền thống, hướng về cội nguồn. Đặc biệt, Lễ hội Lam Kinh cũng làm sâu sắc thêm những giá trị nhân văn của lễ hội văn hóa truyền thống Việt Nam. 
                                 L.X.S


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 51
 Hôm nay: 2795
 Tổng số truy cập: 13973775
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa