Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Văn hóa   /   Hò kéo thuyền, chèo thuyền - loại hình dân ca đặc sắc của ngư dân biển Thanh Hóa   
Hò kéo thuyền, chèo thuyền - loại hình dân ca đặc sắc của ngư dân biển Thanh Hóa   

Hò kéo thuyền, chèo thuyền - loại hình dân ca đặc sắc của ngư dân biển Thanh Hóa   

                        HOÀNG MINH TƯỜNG

Hò là một loại hình văn hóa dân gian hình thành rất sớm trong sinh hoạt và lao động tập thể của người dân từ thời xa xưa. Hò xuất hiện ở nhiều nơi, chủ yếu trong cộng đồng người Việt, phổ biến nhất là tại các làng xã ven sông, biển trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Do sinh sống trên các dòng sông như: sông Mã, sông Chu, sông Bưởi, sông Đò Lèn và nơi các con sông đổ ra biển: Lạch Càn, Lạch Sung, Lạch Trào, Lạch Ghép, Lạch Bạng; căn cứ vào môi trường diễn xướng, các nhà nghiên cứu chia hò làm hai loại: hò trên cạn và hò trên sông biển.
Hò là một trong những loại hình dân ca, do người dân sáng tác bằng lời và ghi nhớ, lưu truyền, thực hành trong lao động, cuộc sống, nhằm đáp ứng nhu cầu và đời sống tinh thần của họ.
Với mục đích sử dụng và các đối tượng khác nhau mà hò gồm có các điệu hò trong lao động, sản xuất như hò sông Mã, hò vác thuyền, hò trục lúa, hò giã gạo...; hò lễ nghi tín ngưỡng, phong tục, gắn với yếu tố tâm linh như hò đưa linh, hò rước kiệu, hò rước nước...; hò sinh hoạt gắn với các trò vui chơi, giải trí như hò chèo đua giật giải, hò đối đáp, giao duyên...
Đặc điểm chung của các điệu hò lao động và tín ngưỡng, phong tục là dù ở trên cạn hay trên sông nước cũng đều là hò tập thể và có hai phần xướng - xô với tính chất âm nhạc mạnh mẽ, khẩn trương. Riêng hò đối đáp là không có phần xướng - xô, giai điệu âm nhạc nhẹ nhàng do từng cá nhân hò giao duyên với nhau, môi trường diễn xướng của nó cũng đa dạng, có thể trên sông nước, trên cạn hoặc trên bến dưới thuyền.
Ví như hò sông Mã (hò đò dọc sông Mã) là diễn xướng dân gian đặc sắc của người Việt xứ Thanh được nhiều người biết đến, một trong những thể loại hò lao động, ra đời trên sông nước, gắn với dòng sông lắm thác, nhiều ghềnh và những con thuyền lên ngược, về xuôi. Hò sông Mã được sinh ra từ nghề chở đò dọc thời xa xưa của người dân xứ Thanh trên sông Mã, sông Chu, do các trai đò vừa chèo đò vừa hát để làm vui lòng khách cùng đồng hành trên thuyền, đồng thời cũng để khích lệ tinh thần lao động của chính mình trong công việc nặng nhọc này. Hò sông Mã là một loại hình hát tập thể trên sông nước, có vế xướng của người cầm cái và vế xô của các trai đò (đôi khi của cả khách đò), được chia làm 5 chặng: hò rời bến, hò đò ngược (còn gọi là sắng đò ngược, hoặc hò chống sào), hò mắc cạn (còn gọi là hò đẩy thuyền), hò đò xuôi, hò cập bến theo cuộc hành trình, trong mỗi chặng, mỗi điệu hò lại có nhiều câu hò khác nhau phù hợp với khung cảnh nơi con đò đi qua.
Với chiều dài bờ biển 102km, Thanh Hóa có nhiều làng chài nổi tiếng từ lâu đời chuyên nghề khai thác hải sản như: Bạch Câu (Nga Sơn cũ), Diêm Phố (Hậu Lộc cũ), Hải Châu (Hoằng Hóa cũ), Hội Triều (thành phố Sầm Sơn cũ), Làng Mom (Quảng Xương cũ), Do Xuyên, Làng Biện (thị xã Nghi Sơn cũ)... Nghề đánh bắt hải sản gắn với con thuyền “Khi vào lộng, lúc ra khơi/ Đẩy thuyền rời bến ta thời chung tay”. Chính vì vậy mà hò kéo thuyền đã được ngư dân miền biển ứng tác, cất cao để kịp thời cổ vũ, động viên các vạn chài gắng sức kéo thuyền, cho thuyền bám biển, vươn khơi, đánh bắt được nhiều tôm cá.
Cư dân vùng bãi ngang ven cửa biển Lạch Bạng có nghề đánh cá bằng thuyền gõ. Gọi là “thuyền gõ” vì khi thả lưới vây đàn cá, người ta dùng dùi khua (gõ) vào mạn thuyền bằng tiết tấu nhanh, sôi động, âm lượng lớn vang xa trên mặt nước để đàn cá hoảng sợ, quẫy đuôi tranh nhau chạy và vương vào các mắt lưới vây. 
Khi chưa ra khơi thì thuyền nằm trên bãi cát. Lúc chuẩn bị đi đánh cá, đoàn trai thuyền mới vác thuyền ra. Người ta dùng từng “điệp hò” của điệu hò vác để điều khiển mọi người cùng thống nhất động tác vác thuyền từ bờ đến gần mép nước: “Ớ... ớ... hò... nào.../ Ghé vai vào nào/ Hệ ố... hệ... ố.../ Vác thuyền lên nào/ Hệ... ố... hệ... ố... hệ... ố.../ Hệ... ố... hệ...ố...”.
Khi những dân chài gồng mình, đồng sức di chuyển con thuyền từ trên bờ cát hướng tới chân sóng còn cách một quãng ngắn thì điệu hò kéo thuyền cùng lúc cất cao, hướng con thuyền tiến ra mặt nước: “Ớ... ơ... hò.... Thuyền đà (đã) nằm cạn trơ trơ/ Ghé vai ta đẩy còn chờ ai đây/ Là... dô... ơ... hò...”.
Câu hò cứ thế cất cao, mặc cho mồ hôi ướt đầm vai áo, át đi cả tiếng sóng, tiếng gió cho đến khi thuyền nổi hẳn trên mặt nước, bồng bềnh theo nhịp sóng xô thì khi đó những câu hò kéo thuyền mới tạm lắng. 
Chài lưới đánh cá là nghề sinh sống chính của phần lớn người dân các làng xã vùng ven biển xứ Thanh. Vì vậy, họ luôn luôn phải chuẩn bị thuyền, bè mảng và ngư cụ tốt để ra khơi cho an toàn và đánh bắt được nhiều tôm, cá. Có được một con thuyền là cả một gia tài lớn đối với người dân biển. Cư dân chài lưới xứ Thanh tự bao đời nay biết ơn biển đem lại nguồn lợi cá, tôm cho cuộc sống của họ, những người dân biển, coi “biển khơi là mẹ, cánh buồm là cha”. Mỗi khi đóng được thuyền mới đi biển, tất cả mọi người trong làng biển cùng hân hoan, chung sức, chung tay cùng hạ thủy con thuyền ra bến, vươn ra biển rộng, sông dài, chở theo mong ước “đi sông gặp đống, đi lộng gặp tía”. Vì vậy, hò đẩy thuyền trong lễ hạ thủy con thuyền mới đó là thời khắc quan trọng, thiêng liêng, chứa đựng bao điều ước mong tốt đẹp: ngư dân với “lưới dài, chải rộng” trên con thuyền mới vươn khơi đánh cá, đem lại cho dân chài cuộc sống sung túc, đủ đầy. Những câu hò đẩy thuyền của dân chài Nga Sơn đã nói lên mong ước đó: “Ớ... ơ.../ Chọn năm, chọn tháng, chọn ngày/ Chọn một giờ tốt, hôm nay (í a) ta đẩy thuyền/ Dô... hò... là dô... là hò... hò dô...”.
Cùng với những câu hò đẩy thuyền, kéo thuyền, ngư dân sử dụng ca dao, và tự ứng tác ra những câu hò với những nội dung phù hợp, tạo hứng khởi cho ngư dân trong khi lao động: “Hò… ớ… hò… Muốn cho loan phượng một phòng/ Chàng đây, nàng đó về chung một nhà… ớ… hò…” và hò khi thuyền cập bến: “Hò… ớ… hò… Thuyền đà cập bến em ơi/ Tiếng oanh thánh thót anh xơi miếng trầu… là… hò”.           
Hò chèo thuyền có một người xướng và tập thể hò xô. Tiết tấu hò nhanh hay chậm là do người xướng. Tuy nhiên, hò chèo thuyền kết hợp giữa nhịp điệu hò phải khớp với nhịp mái chèo. Lời của hò là thể thơ lục bát, có thể tự sáng tác ngẫu hứng ngay tại chỗ hoặc sử dụng những câu ca dao, chuyện thơ để vận vào làn điệu hò: “Dô khoan... dô khoan... dô khoan.../ Dô khoan... dô khoan... dô khoan.../ Trăng lên xế bóng trăng tà/ Cho thuyền xuống bến cùng ta khoan hò/ Khoan hò chung sức đẩy thuyền/ Người đẩy, người kéo cho thuyền ra khơi/ Dô khoan... dô khoan... dô khoan.../ Dô khoan... dô khoan... dô khoan...”.
Chèo thuyền là công việc vất vả, để giảm bớt mệt mỏi, dân chài ven biển thường hát hò cho khuây khỏa và quên đi nỗi mệt nhọc. Hò chèo thuyền do một người bắt cái thường “trở làn” hò sang các điệu khác để tạo sự hứng khởi cho mọi người: “Dô khoan... dô khoan... dô khoàn/ Dô khoan... dô khoan... dô khoàn.../ Chèo thuyền, ngược nước... dô khoan/ Nước ngược, gió cả, sóng to/ Dô khoan... dô khoan... dô khoàn/ Người chèo, người chống/ Dô khoan... dô khoàn/ Người chèo, người chống, mau cho, cập bờ/ Dô khoan... dô khoan... dô khoàn/ Dô khoan... dô khoan... dô khoàn...”.
Hò kéo thuyền và chèo thuyền của ngư dân biển Thanh Hóa ra đời, gắn với việc ra khơi, vào lộng đánh bắt và khai thác hải sản trong môi trường biển là một trong những loại hình dân ca có giá trị và đặc sắc. Tuy nhiên việc sưu tầm, nghiên cứu và phát huy giá trị của hò biển còn chưa được quan tâm. Để hò kéo thuyền và chèo thuyền của ngư dân biển phát huy giá trị, gắn với phát triển văn hóa, du lịch, các cấp ủy, chính quyền các địa phương vùng biển và ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phải quan tâm, có những cách làm và giải pháp phù hợp, hữu hiệu, cho câu hò của những người dân biển cất cao, bay bổng, ngợi ca cuộc sống, ngợi ca biển đảo giàu đẹp của quê Thanh và đất nước, góp phần làm nên sắc thái văn hóa tỉnh Thanh đậm đà, giàu hương sắc. 
                                                                                          H.M.T
 


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 129
 Hôm nay: 8658
 Tổng số truy cập: 14715636
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa