Các văn nghệ sĩ xứ Thanh đạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật
Các văn nghệ sĩ xứ Thanh đạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật
KIỀU THU HUYỀN
Đến nay, Thanh Hóa có 8 văn nghệ sĩ đã nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (VHNT). Trong đó, năm 2007 có nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ; năm 2017 có nhà văn Kiều Vượng, nhà sưu tầm văn hóa Phạm Vương Túc (Phạm Vương Anh), Hoàng Anh Nhân, Nguyễn Minh Hiệu (truy tặng); và năm 2022 có nhà văn Lê Văn Tĩnh (Từ Nguyên Tĩnh), nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Cao Sơn Hải, NSND Hoàng Ngọc Hải (Hoàng Hải). Trong số đó, đến nay có 3 tác giả đã về với thế giới người hiền. Nhân tổng kết 50 năm VHNT sau ngày đất nước thống nhất, nhắc lại về những văn nghệ sĩ này cũng là một lời tri ân vì những cống hiến với mảnh đất quê Thanh.
Gia tài văn nghệ
Không ai sinh ra đã là nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà điêu khắc, chỉ có nhu cầu giãi bày mới buộc họ cầm bút, cầm cọ để thể hiện tâm tư tình cảm, thái độ của bản thân trước đời sống và con người.
“Lực lưỡng” nhà nghiên cứu văn hóa Minh Hiệu
Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Minh Hiệu sinh năm 1924, ở xã Trường Giang (Nông Cống). Từ năm 1949 đến 1956, ông là biên tập viên báo Cứu Quốc Liên khu V. Tiếp theo đó, từ 1957-1972, ông hoạt động văn nghệ Liên khu 4. Ông thuộc thế hệ hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, và là một trong những người sáng lập Hội VHNT Thanh Hóa. Từ năm 1973 đến khi nghỉ hưu, ông công tác ở Thanh Hóa, từng là Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa, Phó Chủ tịch Hội VHNT tỉnh nhiều nhiệm kỳ.
Ông sớm khẳng định được tên tuổi của mình ở thể loại thơ. Từ năm 1949 ông đã nổi tiếng với bài thơ “Mưa núi” - “Bài thơ mang đặc điểm chung của thơ ca buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Khỏe, tươi, vạm vỡ, nhiều chi tiết sống...” (Hữu Thỉnh).
Sau này, ông dành nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu văn nghệ dân gian, đặc biệt là giữ gìn những giá trị dân gian miền núi phía Tây Thanh Hóa. Ông sưu tầm, biên khảo “Tục ngữ, dân ca Mường Thanh Hóa” và “Tuyển tập truyện thơ Mường (Thanh Hóa)” trên nghìn trang in, chứa đựng thật nhiều những vẻ đẹp nhân bản trong kho tàng văn hóa dân gian các dân tộc Mường, Thái, Mông...
Nhà nghiên cứu Hoàng Anh Nhân: Từ những nỗi truân chuyên đến sự may mắn
Trong cuốn Hồi ký Hoàng Anh Nhân, ông có viết: “Tôi sinh năm 1936, ở làng Đại An, xã Hoằng Lương, huyện Hoằng Hóa - một làng quê nông nghiệp. Tôi lớn lên trong khuôn phép của tổ tiên dạy rằng, bán chị em xa mua láng giềng gần, chị em không bán láng giềng phải mua, như vậy là gia đình, làng xóm tạo nên cộng đồng làng, cộng đồng làng trở thành sức mạnh, là bóng mát chở che cho cuộc sống của mỗi người”.
Nhiều người nghĩ đời ông lắm truân chuyên vì chỗ nào vất vả nhất, ông đều có mặt. Năm 1960 ông vào làm việc ở Ty Văn hóa (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch), sau đó được cử vào tỉnh Sông Bé đi xây dựng văn hóa, rồi trở ra Thanh Hóa và được biệt phái sang Ban Dân tộc phụ trách văn hóa các dân tộc ít người. Cá nhân ông coi đó là một phần của sự may mắn. Nhờ công việc tiếp xúc với miền núi, với đồng bào dân tộc thiểu số, nhờ có những năm tháng ở trên rừng, với chiếc xe đạp cà tàng và mấy bộ quần áo lặn lội qua bản này, thung kia mà ông đã dấn thân vào con đường sưu tầm nghiên cứu. Gia tài ông để lại là 16 công trình sưu tầm nghiên cứu về văn hóa Mường trong tổng số 47 đầu sách.
Trong đó, hai cuốn ông tâm đắc là “Cõi người qua tín ngưỡng Mường Trong” (2008) và “Văn hóa giao duyên Mường Trong” (2011) cũng chính là hai cuốn sách ông đã vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về VHNT năm 2017.
Nhà sưu tầm, biên soạn văn hóa dân gian Cao Sơn Hải: Tiếc mà làm, làm phải trách nhiệm
Sinh năm 1937, 88 năm của đời người, ông luôn tận tụy cống hiến khi đang làm viên chức Nhà nước với các công việc và chức vụ: Dạy học, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, Đại biểu Quốc hội khóa V; Ủy viên Ủy ban Văn hóa giáo dục của Quốc hội VI; Phó Chủ tịch Thường trực Hội Khuyến học tỉnh... Để rồi sau khi nghỉ chế độ bảo hiểm ông quay trở lại những đam mê thuở còn là sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội với luận văn “Đời sống của người Mường qua ca dao, tục ngữ”.
Hai mươi hai năm gắn bó với con chữ, ông cho xuất bản 24 đầu sách. Trong đó đáng chú ý là 15 cuốn sưu tầm - dịch, nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian Mường. Năm 2022, ông vinh dự được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về VHNT với chùm 3 tác phẩm: “Những bài ca đám cưới người Mường Thanh Hóa”, “Lễ Pồn Pôông eng cháng” (song ngữ), truyện thơ “Nàng Út Lót - Đạo Hồi Liêu” (song ngữ)... Giải thưởng cao quý ấy là “quả ngọt” của cả đời một người Mường tận tụy với văn hóa Mường.
Lê Đình Quỳ, điêu khắc về lịch sử và chiến tranh là một “đặc ân”
Sinh năm 1940, năm nay ông đúng 85 tuổi. Nhắc đến Lê Đình Quỳ, người ta nhắc đến hơn 600 bức tranh sơn dầu và 20 tác phẩm tượng đài. Trong đó, nhiều tượng đài được đánh giá cao như: Không quân Việt Nam, Ngã ba Đồng Lộc, Khát vọng thống nhất, Quang Trung, Nguyễn Trãi, Lão dân quân Hoằng Trường, Thảm họa B52 Hoằng Phượng…
Riêng ở Thanh Hóa, dấu ấn Lê Đình Quỳ rất lớn. Nếu “Lão dân quân Hoằng Trường” nêu bật ý chí kiên cường của dân tộc qua hình ảnh cụ già vùng biển, tượng đài “Thảm họa B52 ở Hoằng Phượng” miêu tả sự căm hờn của nhân dân trước thảm họa 162 người dân Hoằng Phượng chết do B52 giặc Mỹ dội xuống làng; thì tượng đài “Thanh niên xung phong trên đỉnh núi Hàm Rồng” ghi công những người đã hiến dâng tuổi xuân của mình cho Tổ quốc. Đó là tình cảm, là lương tâm và trách nhiệm của nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ đối với quê hương Thanh Hóa.
Với sức sáng tạo và lao động nghệ thuật, năm 2007, nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ đã vinh dự được nhận Giải thưởng Nhà nước về VHNT. Ngoài ra, ông còn được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục “Nhà điêu khắc, thiết kế nhiều tượng đài về chủ đề chiến tranh cách mạng được xây dựng ở nhiều tỉnh, thành phố Việt Nam nhất”.
Từ những bức ký họa chân dung bằng chì than đến khối lượng đồ sộ về tranh sơn dầu, rồi những tác phẩm tượng đài, ông xứng đáng được gọi bằng những cụm từ: người đặc biệt, “quái kiệt” xứ Thanh.
Nghệ sĩ nhân dân Hoàng Hải: Cống hiến trọn đời cho nghệ thuật Múa
Cũng sinh năm 1940, đến nay NSND Hoàng Hải đã có 67 năm hành trình nghệ thuật. Chặng đường nghệ thuật của ông đi cùng những biến động của lịch sử dân tộc, đi cùng với sự phát triển của nghệ thuật múa ở Thanh Hóa. Ông không chỉ lãnh đạo đoàn mà còn tận mắt chứng kiến sự trưởng thành của các thế hệ nghệ sĩ tỉnh nhà.
Gia tài của NSND Hoàng Hải có khoảng 100 tác phẩm múa và gần 200 huy chương tại các kỳ hội diễn chuyên nghiệp toàn quốc và nghệ thuật quần chúng. Với những thành tích như vậy, ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba (năm 2003). Năm 2015, ông trở thành người đầu tiên trong ngành Múa của tỉnh Thanh Hóa được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Và năm 2022, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về VHNT với cụm 4 tác phẩm: Kịch múa “Vĩnh biệt hoa anh túc” và các tiết mục múa: “Hò sông Mã”, “Hướng đăng” và “Khúc khải hoàn”.
Ông là người hiếm hoi trong làng Múa vừa là biên đạo vừa sáng tác âm nhạc. NSND Hoàng Hải chia sẻ: “Với tôi, múa và sáng tác âm nhạc như hai đầu đôi quang gánh để đi thăng bằng trên con đường nghệ thuật. Trong múa có nhạc và trong nhạc có múa. Một người nghệ sĩ múa sẽ không thể “bay” lên nếu không hiểu về âm nhạc và ngược lại, những điệu múa cũng chắp cánh để âm nhạc thăng hoa hơn”.
Vương Anh - nhà thơ của xứ Mường
Sinh năm 1944 tại huyện Ngọc Lặc, nhà thơ Vương Anh được mọi người biết đến từ khá sớm - khi ông được giải Nhì Cuộc thi Thơ báo Văn nghệ năm 1969.
Ông được xem là nhà thơ nổi bật của người Mường nói riêng và các nhà thơ dân tộc miền núi nói chung. Đến nay, nhà thơ Vương Anh đã có gần 20 tập thơ, trường ca và nhiều cuốn biên soạn nghiên cứu văn hóa Mường. Trong đó, “Xường cài hoa dân tộc Mường” đã mang lại cho ông Giải thưởng Nhà nước về VHNT năm 2017. “Xường cài hoa dân tộc Mường” là tiếng lòng người Mường ngàn đời ngân vang, tỏa vọng khắp rừng khắp núi. Cuốn sách đã sử dụng tổng lực những vật thể xung quanh con người, đồng thời, khi hiện diện trong xường cài hoa thì nó cũng trở nên có hồn, gắn kết thân phận, bộc bạch tâm trạng, nói hộ lòng người. Chính bởi lẽ đó, xường cài hoa có chỗ đứng riêng trong hệ thống xường Mường.
Kiều Vượng trưởng thành từ những chuyến đi thuyền nan vượt biển
Sinh năm 1944, cả cuộc đời, sự nghiệp văn chương, báo chí nhà văn Kiều Vượng dành trọn cho xứ Thanh yêu dấu của mình.
Nhà văn Kiều Vượng từng là giáo viên, rồi gia nhập Thanh niên xung phong trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tham gia chỉ đạo vận tải trên sông, trên biển và chỉ huy lực lượng thanh niên xung phong mở đường giúp nước bạn Lào. Ông từng là Bí thư Đoàn, Bí thư Đảng ủy Đoàn Vận tải Lam Sơn tại tỉnh Quảng Bình, Trưởng phòng tổ chức Công ty Vận tải thuyền nan.
Hòa bình lập lại, ông chuyển sang làm công tác xuất bản, báo chí và viết văn. Ông từng là cán bộ biên tập, Trưởng phòng kế hoạch Nhà xuất bản Thanh Hóa, Trưởng Văn phòng đại diện báo Văn nghệ khu vực Bắc miền Trung tại Thanh Hóa.
Gia tài văn chương của ông là 23 đầu sách văn học và 2 kịch bản điện ảnh. Ngoài giải thưởng cho cuộc thi kịch bản, ông thành công với các tiểu thuyết: “Sóng gió”, “Vùng trời thủng”, “Bão không có gió”. Năm 2017, ông đã được trao Giải thưởng Nhà nước về VHNT.
Ngay trên giường bệnh, với trách nhiệm và ý chí của một nhà văn, nhà báo, ông vẫn cho ra đời những trang bút ký đầy thuyết phục viết từ gan ruột, phản ánh những góc khuất đầy tiếng thở dài cùng nước mắt trong cuộc sống, tình cảnh và tâm tư của những bệnh nhân đang từng giờ chống chọi với căn bệnh ung thư ngay bên cạnh ông. “Những trang viết đã khiến cho ngay cả những người biên tập báo, những đồng nghiệp lớp sau của ông, phải ứa nước mắt khi biết được hoàn cảnh ra đời của nó, và sau đó mới là sự trân trọng, cảm kích của bạn đọc…” (Khuất Quang Thụy).
Nhà văn Từ Nguyên Tĩnh: Viết là đi tìm tên gọi của chính mình
Sinh năm 1947, nguyên là lính đại Đại đội 4 Hàm Rồng, ông có 10 năm gắn bó với trận địa cầu Hàm Rồng và tuyến lửa xứ Thanh.
Tốt nghiệp Khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn), ông trở về Thanh Hóa, sau đó làm Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ, Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Xứ Thanh, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Ký ức và hiện thực sống, chiến đấu ngồn ngộn cùng ân huệ cuộc đời “Sống sót được đã là may!” khiến ông luôn trăn trở, đắm đuối với đề tài người lính để đi tìm tên gọi của chính mình. Mười tám tuổi với những bài thơ đầu tiên, đến nay, gia tài văn chương của ông là hơn 30 tập sách truyện ngắn, tiểu thuyết, ký và thơ. Đặc biệt, ông đã được nhận Giải thưởng Nhà nước về VHNT năm 2022 với tập truyện ngắn “Mối tình chàng Lung Mù”.
Dấn thân vào đời sống và trả ơn cuộc đời
Để lí giải tại sao các văn nghệ sĩ này tạo được dấu ấn cá nhân và khẳng định được vị trí của mình trong lòng bạn bè, đồng nghiệp, theo tôi, họ có sự trải nghiệm, có vốn sống, có khát vọng cầm bút để viết về chính mình và về con người.
Tám văn nghệ sĩ vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về VHNT đều sinh ra trong hoàn cảnh lịch sử đất nước nhiều biến động, trải qua chiến tranh, kinh qua nhiều môi trường làm việc.
Bản thân cuộc đời các văn nghệ sĩ này đã là những chuyến đi bão táp. Đọc tiểu thuyết hay truyện ngắn của nhà văn Kiều Vượng, Từ Nguyên Tĩnh, độc giả có thể nhận ra ở họ một vốn sống đáng sửng sốt. Xem tranh của Lê Đình Quỳ ta sẽ hiểu những năm tháng được đào tạo ở Nga đã hun đúc nên một tay nghề điêu khắc mạnh mẽ và vững chãi; đọc những công trình nghiên cứu của Minh Hiệu, Hoàng Anh Nhân, Vương Anh, Cao Sơn Hải hay xem những bài múa của NSND Hoàng Hải ta thấy ở họ sự thâm nhập vào đời sống của đồng bào dân tộc, đi sâu vào tận cùng văn hóa dân tộc.
Nhiều trải nghiệm sống, vì thế họ không chịu “gò”, “ép” trong một thể loại cụ thể mà “trải nghiệm” và đa dạng về mặt thể loại. Ngay cả Minh Hiệu, Vương Anh, Cao Sơn Hải trước khi chuyên tâm nghiên cứu, họ đã làm thơ, và có nhiều tập thơ ấn tượng; Kiều Vượng, Từ Nguyên Tĩnh trước khi thành công với văn xuôi đã cho xuất bản một số tập thơ... Sự đa dạng đó khiến gia tài văn chương nghệ thuật của họ dày hơn, lên tới vài ngàn trang sách.
Nhưng hơn hết là họ dám cất lên tiếng nói chung, tiếng nói trách nhiệm với cuộc đời và con người. Đọc Minh Hiệu ta sẽ thấy sự say sưa với công việc sáng tác, sưu tầm, khảo cứu văn học dân gian, đặc biệt là ca dao. “Nghệ thuật ca dao” của ông được viết công phu, đã hội tụ được đặc trưng của ca dao. Kết quả của cuốn sách còn có sự kế thừa và phát huy một cách chọn lọc từ những người đi trước nên tương đối toàn diện, khái quát mà cũng rất chi tiết. Cuốn sách lôi cuốn vì có sự đối sánh rất cụ thể với các thể loại khác có liên quan nên dễ hiểu, dễ tiếp cận mà sâu sắc.
Không ngẫu nhiên Hoàng Anh Nhân, Cao Sơn Hải, Vương Anh, đều nghiên cứu văn hóa dân gian Mường. Hơn hết là họ yêu văn hóa Mường. Nếu hai tác giả Hoàng Anh Nhân - Vương Anh có công trong việc sưu tầm sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, thì Cao Sơn Hải đã chứng minh một cách có hệ thống sử thi “Đẻ đất đẻ nước” không chỉ là tài sản văn hóa của người Mường (Mol) mà còn là sản phẩm tinh thần của người Việt - Mường, xa hơn là của người Lạc Việt.
Sáng tác của nhà văn Kiều Vượng, Từ Nguyên Tĩnh cơ bản thuộc về thời hậu chiến và đồng hành với công cuộc đổi mới đất nước. Trải qua những năm tháng chiến tranh, lăn lộn với những ngày đi mở đường, vì thế trong nhiều trang viết họ có ngoái nhìn quá khứ, có tìm về truyền thống nhưng hơn hết vẫn là gắn bó và trăn trở với thực tại. Vượt qua tâm thế của dòng văn học vết thương, tinh thần phản tư, họ đã nhập cuộc vào đời sống mới, thách thức mới, vận hội mới. Các nhân vật của họ chủ yếu là nhân vật thời hậu chiến trước những vấn đề của xã hội “mở cửa”. Với nhà văn Kiều Vượng, chính năm tháng ở Đoàn vận tải Lam Sơn thuyền nan Thanh Hóa trong những năm chiến tranh ác liệt mà cuối đời ông viết cuốn “Hoài niệm những dòng sông”; và nhờ hơn sáu năm mở đường từ Hồi Xuân, Thanh Hóa sang Tén Tằn dọc biên giới hai nước Việt - Lào chứng kiến những mất mát, hy sinh của đồng đội, trong đó có những cái chết vì rắn cắn, bọ cạp cắn, chết vì tổ ong lỗ mà ông có tiểu thuyết “Vùng trời thủng”. Cuộc đời xẻ núi mở đường không ngơi nghỉ và lặn ngụp trên sông, trên biển suốt cuộc chiến tranh tàn khốc là chất liệu để ông sáng tạo đồng thời là sự thôi thúc ông trong vai trò người cầm bút phải viết về những năm tháng đã qua để “vạch mặt” đời sống hiện tại nhiều “trớ trêu”.
Với nhà văn Từ Nguyên Tĩnh, nếu trong mỗi trang ký sự của ông viết về một thời bom đạn hào hùng ở Hàm Rồng có đủ tiếng nói “Yêu, căm, chiến, lạc” thì trong những trang tiểu thuyết, ngoài âm hưởng bi hùng của cuộc chiến là những phận người thời hậu chiến, “có bước đi chao đảo, chập choạng của thời cuộc đan xen cũ - mới, có hoài niệm đắng cay về những mối tình xưa, có yếu tố huyền ảo và triết lý về thân phận con người, có bút pháp giễu nhại và bi hài trước thực tại đang vận động, chuyển hóa, đổi thay...” (Nguyễn Hữu Sơn).
Để khai thác chất dân gian xứ Thanh, NSND Hoàng Hải đã phải tìm hiểu đặc trưng riêng của các điệu múa ở xứ Thanh với những địa phương khác; phải dùng từng làn điệu âm nhạc để phù hợp với mỗi động tác múa. Ví dụ Hò sông Mã với đặc trưng “dô tá dô tà” rất khác với những điệu hò sông Hương, điệu hò Đồng Tháp Mười... Các động tác chèo đò dọc lên thác xuống ghềnh, khỏe khoắn, mạnh mẽ hơn mà vẫn đầy lãng mạn, trữ tình. Trực tiếp chứng kiến những cơn thèm thuốc phiện của người dân tộc Mông đã thôi thúc ông sáng tác “Vũ điệu hoa anh túc” thông qua chất liệu múa của người Mông tại bản Pá Hộc, xã Pù Nhi (này thuộc huyện Mường Lát). Vở kịch múa này đã đoạt nhiều huy chương, trong đó có Huy chương Vàng trong hội diễn chuyên nghiệp tại Thái Nguyên năm 1997.
Được đào tạo bài bản tại Trường Đại học Mỹ thuật Kiev (Ucraine) nên sự ảnh hưởng trong ngôn ngữ sáng tác của điêu khắc Liên Xô cũng dễ hiểu với nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ. Tuy nhiên, việc tự ý thức được tính dân tộc, yếu tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam trong sáng tác đóng vai trò quan trọng. Ông đã chọn con đường đi riêng trong sáng tác tượng đài, một lĩnh vực xưa nay ở nước ta không phải là thế mạnh. Cũng giống như bao văn nghệ sĩ khác, hiện thực đầy chất anh hùng và đau thương của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ là đề tài được ông dành cả cuộc đời theo đuổi.
Tác phẩm đầu tiên Lê Đình Quỳ ghi được dấu ấn với người xem chính là một trong những tác phẩm điêu khắc ra đời sớm nhất ở Việt Nam “Lão dân quân Hoằng Trường” (1969) phản ánh sự chống trả quyết liệt của nhân dân khi đế quốc Mỹ xâm lược miền Bắc Việt Nam. Một lão ngư dân quần xắn cao, ngực trần, bàn chân vững chãi bám chặt mặt đất, tay phải giơ cao vòng ngắm súng 12 ly 7, tay trái cầm chiếc mũ rơm phòng tránh mảnh bom. Sinh khí của một con người chân chất, lẫm liệt toát ra từ tác phẩm giúp người xem liên tưởng đến hình ảnh các lão dân quân bắn rơi máy bay trên quê hương Thanh Hóa. Hồn cốt mà tác phẩm Lê Đình Quỳ gửi gắm là ở hình tượng người ông, người cha suốt cuộc đời hai sương một nắng chống chọi với thiên nhiên, với giặc xâm lăng để giữ nguyên bờ cõi và các thế hệ sau này không bao giờ được quên.
Như vậy, ngoài tài năng vốn có, chính sự lăn lộn, trải nghiệm với đời sống, sự trăn trở, day dứt với thân phận con người, nỗi khát khao có cuộc sống tốt đẹp hơn không chỉ là chất liệu sáng tạo, mà còn là động lực để họ dám sống và dám sáng tạo.
Và những dự định
Ngoài 3 văn nghệ sĩ Minh Hiệu, Hoàng Anh Nhân, Kiều Vượng đã đi về thế giới người hiền, 5 tác giả còn lại: Cao Sơn Hải, Lê Đình Quỳ, Hoàng Hải, Vương Anh, Từ Nguyên Tĩnh vẫn đang tiếp tục những trăn trở và dự định của mình.
Dù đã 88 tuổi và có gần 30 năm nghiên cứu biên soạn sưu tầm, nhưng nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Cao Sơn Hải vẫn đang “chạy đua” với thời gian. Bởi ông luôn trăn trở việc níu giữ những giá trị văn hóa truyền thống nói chung và văn hóa Mường nói riêng. Vì thế, tiếp nối dòng mạch từ sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, ông ôm ấp đề tài về trầm tích và sự bật khởi của văn hóa Lạc Việt trong không gian văn hóa Mường. Ngoài ra, qua quá trình khảo sát ông thấy 70% ngôn ngữ Mường là tiếng Việt Mường xưa, chỉ có 30% là tiếng Hán Việt. Điều đó thôi thúc ông làm từ điển Mường với khoảng hơn 1 vạn từ. Theo chia sẻ của ông thì bộ từ điển này đã hoàn chỉnh, chỉ chờ thẩm định.
Năm 2017, nhà văn Từ Nguyên Tĩnh cho ra mắt tập “Tuyển tập Từ Nguyên Tĩnh” với gần 3.000 trang sách khổ lớn chia thành 5 tập: Tập I và Tập II gồm 100 truyện ngắn; Tập III gồm 2 tiểu thuyết “Mảnh vụn chiến tranh” và “Cõi Người”; Tập IV gồm 2 tiểu thuyết “Sống được là may” và “Truyền thuyết sông Thu Bồn”; Tập V gồm 2 truyện vừa, thơ và trường ca…
Cái “bóng” quá lớn ấy, dường như không khiến bản thân ông sợ hãi, bởi chưa lúc nào ông ngừng sáng tạo. Năm 2025, ông dự định xuất bản cuốn tiểu thuyết có nhan đề là “Tấm thẻ bài”. Vẫn là đề tài hậu chiến, nhưng không phải là lính Mỹ quay trở lại Việt Nam, mà là hành trình cô thanh niên xung phong năm nào sang đất nước Mỹ để tìm cha cho con mình.
Còn NSND Hoàng Hải, với ông là rất nhiều những trăn trở, đặc biệt ông muốn đẩy mạnh và phát triển nghệ thuật dân vũ Thanh Hóa. Sinh ra ở vùng đất địa linh nhân kiệt với nhiều trầm tích văn hóa, nhiều lễ hội dân gian, những điệu múa câu hò vấn vít, vì thế với ông việc kết hợp giữa nghệ thuật truyền thống vào múa đương đại, để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa là luôn cần thiết và cấp thiết.
Để có thể thực hiện được vẹn tròn mọi kế hoạch của mình, NSND Hoàng Hải tự ví mình như cái bảng, xong việc nào là xóa đi, vạch ra những đề mục khác và nỗ lực làm việc. Quan điểm của ông là: còn hơi thở là còn dấn thân, còn hy sinh cho nghệ thuật. Nỗ lực cống hiến của ông “Trước hết là thỏa chí đam mê của cá nhân, sau nữa là góp phần phát triển VHNT của quê hương, đất nước”.
Ngày tháng đang dần ngắn lại trước mắt những cây đại thụ làng văn nghệ xứ Thanh. Hầu hết họ đã leo sang mốc “bát thập đắc hi hỉ” nhưng những dấu ấn của họ để lại trong đời sống văn nghệ Thanh Hóa là không nhỏ. Người ta có thể thích, cũng có thể không thích nét tính cách của một cá nhân, nhưng đến nay trên mảnh đất này, cái bóng của các văn nghệ sĩ này vẫn đang tỏa xuống. Họ là đại diện cho một thế hệ, một gạch nối liền mạch giữa giai đoạn văn học nghệ thuật trước và sau ngày đất nước thống nhất. Nhắc đến họ những ngày này cũng là khẳng định vai trò của văn học nghệ thuật trong hành trình thống nhất đất nước. Nhắc đến họ để chúng ta biết được rằng, muốn đi được đường dài trên con đường văn chương, nghệ thuật đầy hố sâu vực thẳm này bên cạnh những va đập của cuộc đời, sự nỗ lực cá nhân, nhu cầu giãi bày còn có khát vọng cống hiến, mong muốn xã hội tốt đẹp hơn và con người gần nhau hơn.
K.H