NGUYỄN TRỌNG VĂN
Lúa hát
Truyện ngắn dự thi

Minh họa: Trương Đình Dung
Thời tiết cuối tháng mười hai ở Huế khá lạnh. Vừa ra khỏi bến xe đò kế bên cầu Gia Hội được một đoạn thì cơn mưa rào nhẹ đổ xuống bất ngờ. Nhà văn Mã Giang kịp rảo chân bước tới một mái hiên gần đấy để đứng trú mưa. Anh gỡ chiếc ba lô đang khoác trên lưng xuống, anh nhìn mưa nghĩ ngợi: Chắc mưa cũng phải nửa tiếng nữa mới tạnh. Chợt có tiếng người gọi. Giọng nữ Quảng Trị nghe nhỏ nhẹ đến thân gần.
- Eng Bình!
Nhà văn Mã Giang quay người nhìn sang bên trái, bên ấy có người vừa gọi anh.
- O Lành. O đi mô nớ?
Thật lạ lùng, cả hai người đều cảm thấy như họ chỉ mới vừa xa nhau cách đây mấy bữa, chứ đâu phải là hai người đã hơn ba năm mới gặp lại nhau. Mà lại gặp ở một nơi mà hai người đều lần đầu tiên tới, một nơi nếu không muốn nói là nơi hầu như chẳng có ai quen thân. Và cũng rất lạ lùng, nhà văn Mã Giang cũng sử dụng phương ngữ Quảng Trị để hỏi lại thay câu đáp lời.
O Lành chắc cũng vừa xuống xe đò chuyến Đông Hà - Huế, trên vai cô còn khoác chiếc túi vải bạt căng phồng.
- O Lành đi mô nớ? - Nhà văn Mã Giang nhắc lại.
- Eng Bình cũng đi mô nớ?
Cô gái phá lên cười, tiếng cười vẻ đùa lại đủ làm cả hai cùng cười vui. Nhà văn Mã Giang đưa tay đỡ hộ cô gái chiếc túi đeo căng phồng.
- O đi mô? Chắc về nhà chồng à?
Câu hỏi mà thực ra là câu đùa của nhà văn Mã Giang làm o Lành đỏ nhừ đôi gò má. O Lành hất hất mái tóc, vừa để cho những hạt mưa bám dính vào tóc rơi xuống lại vừa thay câu trả lời. Kể cũng lạ, o Lành vốn là du kích ngoài huyện Hải Lăng - Quảng Trị, đạn bom, sống chết còn chẳng hãi ấy mà lại thấy ngượng ngùng khi nghe câu hỏi “Chắc về nhà chồng à?” của nhà văn Mã Giang.
O Lành sau vài giây trấn tĩnh thì đáp:
- Tưởng eng Bình giờ ni đang ở quê với vợ con chứ? Sao bây chừ lại vô Huế?
Nhà văn Mã Giang không trả lời, anh quay mặt đi hòng che giấu cảm xúc. Vả lại, biết nói với o Lành thế nào nhỉ?
*
Giải phóng miền Nam được gần bảy tháng thì anh bộ đội Nguyễn Đức Bình tức nhà văn Mã Giang, mới được cấp trên cho nghỉ phục viên. Ban đầu anh đã nghĩ: Cứ về làng đã. Rồi chắc sẽ tính đến chuyện xin trở lại làm giáo viên ở quê nhà. Bao năm xa rồi. Nay chiến tranh đã kết thúc. Chẳng gì hơn là được về làng sống với vợ con, sống với nghề dạy học.
Cũng phải nói thêm rằng, bữa anh đề đạt với cấp trên nguyện vọng muốn được về làng, thì các chú, các anh từng công tác với anh ở tuyên huấn Khu ủy Trị Thiên đã có ý kiến. Mọi người đều đồng tình với mong muốn ở bên vợ con của anh nhưng mọi người cũng nói thêm: “Cậu giờ đã là một cây bút chững chạc, có nhiều kinh nghiệm từ thực tế và từ trong chiến đấu. Những người như thế ở trong này rất cần. Tỉnh Thừa Thiên mới giải phóng còn nhiều việc phải làm. Để tuột một cây bút như cậu kể thì cơ quan rất tiếc”.
Nhà văn Mã Giang cũng lấn cấn, anh biết mọi người quý mến mình và tạo điều kiện cho mình làm việc, nhưng cứ nghĩ tới cảnh người vợ trẻ suốt bao năm một thân một mình nuôi hai đứa con nơi quê nhà, thì lòng anh lại chẳng thể nào an yên được. Anh muốn được chăm sóc vợ con để bù lại những tháng năm biền biệt. Hơn nữa chắc ở quê vợ con anh đang trông ngóng, mấy năm qua họ chưa từng nhận được một dòng tin tức về anh.
Tiết trời lành lạnh nhưng anh bộ đội Đức Bình sau bao năm mới trở về làng lại không thấy lạnh. Con đường trên đê sông Mã gió bấc thổi hun hút. Đức Bình hăm hở khoác ba lô cứ nhằm hướng làng Triêng mà ngược đường đê. Trong chiếc ba lô người lính, ngoài hai bộ quần áo thì còn có hai con búp bê cỡ bằng chiếc phích đựng nước, hai con búp bê mặc váy hồng như nhau, có mái tóc vàng và đeo nơ đỏ cũng như nhau. Đức Bình thầm nghĩ: Như thế hai đứa con gái của mình sẽ không tỵ nhau, không giành nhau. Gió thổi thốc lên từ mặt sông giá buốt. Đức Bình hơi ngoái đầu lại, anh chỉ lo hai con búp bê chẳng may rơi mất. Ở trong chiếc ba lô ấy còn có mấy mét vải hoa, một bộ đồ cũng vải hoa. Mấy thứ đó anh nhờ anh em trong cơ quan là người Huế tìm mua giúp ở chợ Đông Ba. Anh nghĩ: Chắc vợ thích lắm đây. Con gái làng mấy ai có được vải hoa cùng bộ đồ như này.
*
- Eng Bình tới chỗ mô? Hay là tạm cùng về chỗ em ở, gọi là đỡ ít ngày.
- O Lành khỏi phải lo. Anh đã có chỗ ở rồi.
- Chỗ mô? Eng đừng ngại. Em cũng về ở tạm chỗ người làng ít bữa thôi.
- O vô Huế có việc chi?
- Em được cử đi học.
- O học chi?
- Là học y tá eng ạ.
Nhà văn Mã Giang gật gù, ý chừng như anh muốn nói nghề ấy xem ra thích hợp với đàn bà con gái. Bao năm chiến tranh, toàn thấy cảnh đạn bom với người chết nên bây giờ o Lành được học y tá là phải rồi. Quê o Lành chắc rất cần những y tá.
Tuy nói là có chỗ ở rồi nhưng thực tình nhà văn Mã Giang mới chỉ thoạt nghĩ đến cách đây vài phút. Khi xe đò đến bến anh chỉ biết là xuống xe chứ chưa biết đi đâu, chưa biết sẽ cậy nhờ ai. Hồi chiến tranh anh hoạt động chủ yếu ở ngoài Quảng Trị. Với Huế anh chỉ mới “làm quen” được dăm ba tháng qua những câu chuyện kể của anh Hoàn, Trưởng Ban Tuyên giáo Khu ủy thời đang ở căn cứ trên A Lưới.
Vốn giáo viên dạy văn cấp hai trường làng, tuy kiến thức văn học của anh chẳng là bao nhưng suốt những năm qua đã “thôi thúc” anh tranh thủ viết. Ban đầu anh bộ đội Đức Bình viết nhật ký, viết thơ vào sổ tay, tiếp theo là anh viết tin, viết bài. Những mẩu tin ngắn cùng mấy bài ký kể về cuộc sống và chiến đấu, cùng những câu chuyện đời thực được anh viết ở mặt trận Quảng Trị đã được các chú, các anh trong tuyên huấn Khu ủy Trị Thiên để mắt. Việc chiến sĩ Nguyễn Đức Bình được điều từ đơn vị chiến đấu về công tác tại báo Quyết Thắng của tuyên huấn Khu ủy Trị Thiên là sự ghi nhận. Cũng từ đó bút danh Mã Giang, tên dòng sông chảy ngang làng anh, chính thức ra đời.
- Eng về chỗ mô?
O Lành lên tiếng hỏi lại cắt ngang dòng suy nghĩ của nhà văn Mã Giang. Mưa đã tạnh, nhà văn Mã Giang cúi xuống khoác ba lô của mình lên lưng rồi lại cúi xuống nhấc chiếc túi đeo căng phồng lên giúp o Lành.
- O về chỗ mô? Để anh mang đỡ chiếc túi một đoạn.
- Biết người ta có về chỗ mô, có gần chỗ mình không mà nói mang đỡ?
O Lành tự dưng nói hờn, nói xong chính o cũng không hiểu tại sao mình lại nói như thế. Ở o du kích này thì đây là lần đầu tiên cô cảm thấy bên mình có một người con trai có thể giúp cô, có thể cho cô cảm giác tin cậy.
- Thì o đi trước chỉ đường. Anh đi theo là tới.
Một câu trả lời đủ khiến o Lành thêm cảm nhận. Hồi chiến tranh tuy bộ đội với du kích được bà con rất thương yêu, đùm bọc, nhưng kiểu đùm bọc như thế này cũng là lần đầu tiên. Bản chất con gái trong o Lành chợt thức dậy sau bao năm nó “lì lợm” cùng đạn bom và những cái chết.
*
Đã tới đầu làng. Từ đây làng Triêng của anh hiện ra. Một nỗi da diết đang thổn thức quay về. Nhớ cách đây sáu năm. Anh giáo viên cấp hai Đức Bình lên đường nhập ngũ. Năm 1969 ấy thực sự là một năm hối hả. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã làm lực lượng của ta hao đi đáng kể. Chiến trường đang rất cần thêm nhân lực. Những năm trước anh giáo trường làng Đức Bình đã mấy lần viết đơn tình nguyện đi bộ đội nhưng địa phương không đồng ý. Chính bác Toàn, xã đội trưởng xã Trinh Sơn, huyện Hoằng Hóa, đã mang những lá đơn của anh về giao trả tận nhà, bác Toàn bảo: “Chiến trường cần bộ đội thật đấy. Nhưng địa phương cũng rất cần những người như cậu. Các cậu có trách nhiệm đào tạo tri thức cho lớp cháu con của xã. Vào bộ đội đánh Mỹ là đánh bằng vũ khí tiên tiến. Không có kiến thức thì không làm chủ được vũ khí, tức là đánh Mỹ không thành công”.
Đơn giản thế thôi và thầy giáo trẻ Đức Bình lại ngày ngày lên lớp và lại “mơ tưởng” đến một ngày được nhập ngũ. Mấy lớp học trò của anh đã lớn lên. Có em đã thành anh bộ đội. Có em học lên. Nhìn chung là các em lớn lên, ra đi, chỉ mỗi có thầy giáo dạy văn Đức Bình là còn ở lại. Đôi lúc Đức Bình thấy sao sao ấy.
Con đường dẫn từ đê vào làng đi qua những cánh đồng lúa cấy đã bén chân. Cây lúa lên xanh rì rào như đang cất lên câu hát, câu hát hòa trong tiếng gió: “Hôm nao cấy lúa ven cầu/ Dưới ánh đèn dầu soi sáng đêm thâu/ Dòng sông Mã soi bóng nhịp cầu/ Có những đoàn tàu hối hả về Nam/ Sao đêm đêm nghe náo nức/ Đây tiếng con tàu hay tiếng tim em/ Ơ cây lúa quê mình xanh biếc nhớ thương”. Đó là lời ca trong bài hát “Cây lúa Hàm Rồng” mà thầy giáo Đức Bình đã kịp mang theo vào mặt trận.
Nhà văn Mã Giang đứng lặng trên đê, anh hít một hơi thở sâu như đang hít hà hương lúa quê nhà. Đó là tiếng hát của gió đồng làng Triêng. Tiếng hát của cây lúa quê mình. Nhà văn Mã Giang khe khẽ hát theo: “Đây quê hương ta bên dòng sông Mã/ Tấm lòng son sắt vẫn trung kiên/ Qua gian lao vẫn nổi câu hò/ Là hò hò ơi ới Hàm Rồng ơi”.
Đồng quê vắng vẻ. Sau cuộc chiến tranh dài có vẻ như đàn ông trong làng thưa vắng nhiều. Thoáng trên cánh đồng, nhà văn Mã Giang chỉ nhìn thấy thấp thoáng xa xa dáng hình của người phụ nữ lom khom trên ruộng lúa. Những dáng hình ấy, lam lũ, thầm lặng và nín nhịn. Một chút xao xuyến chợt dấy lên khiến nhà văn Mã Giang thấy bùi ngùi: Không hiểu trong những dáng hình phụ nữ thấp thoáng xa xa kia có dáng hình của Yến không? Không hiểu giờ này Yến, vợ mình, đang làm gì. Chắc cô ấy không ngờ rằng chồng mình đã trở về, chồng mình đang trên con đường xuyên qua cánh đồng lúa để về với vợ với con đây.
Cảm giác nhớ thương dập dồn. Đôi chân của anh díu cả lại. Vấp nhẹ và vấp nhẹ. Có lúc tưởng như khựng lại. Cái khựng lại nhắc nhở anh: Hãy vui lên. Mày đã sống và mày đã trở về lành lặn.
*
- Tới rồi eng.
O Lành dừng lại trước một ngôi nhà. Nhà văn Mã Giang ngó qua cánh cổng gỗ nhỏ. Phía bên trong là một khoảng vườn xinh xinh. Phía sau khoảng vườn là một ngôi nhà mái ngói thâm trầm. Vẻ bình yên và trầm sâu đủ cho nhà văn Mã Giang thấy yên tâm.
Suốt chặng đường từ chỗ hai người trú mưa đi về tới đây trong thâm tâm nhà văn Mã Giang luôn đặt câu hỏi “Chỗ o Lành tới có ổn không?”, “Chỗ ấy người dân xứ Huế bao năm sống trong lòng địch sẽ đón nhận cô ấy như thế nào, khi cô ấy đã từng là một nữ du kích ngoài Quảng Trị?”.
Đưa chiếc túi căng phồng cho o Lành xong. Bất chợt nhà văn Mã Giang thấy có gì khang khác trong lòng, hình như là bịn rịn? Nhất là khi o Lành hỏi lại:
- Giờ eng đến chỗ mô? Eng biết lối tới đó chưa?
Đến giờ nhà văn Mã Giang mới phân vân. Anh chưa biết đi đâu. Chưa biết sẽ tìm gặp ai, nhưng để cho o Lành yên tâm nên anh nói đại:
- Nhớ chứ. O vô trỏng đi.
- Eng Bình số nhà này nhé - Rồi o Lành ngước mắt nhìn nhà văn Mã Giang với ánh mắt chan chứa.
Chính ánh mắt ấy, o Lành đã nhìn anh không nói câu gì khi anh tạm biệt đội du kích xã Hải Xuân để lên cứ.
- Eng nhớ thu xếp xong thì sớm tới đây tìm em đấy nhé - O Lành nói bằng giọng bâng khuâng.
*
Như một lời hứa hẹn, nhà văn Mã Giang lại thấy nao nao, anh nhớ lại hồi cuối tháng 5 năm 1972, khi ấy đơn vị của anh từ trên căn cứ được lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu Trị Thiên luồn rừng, rồi vượt đường số một, về “cắm” ở xã Hải Xuân, thuộc huyện Hải Lăng. Tuy đã được giải phóng nhưng đời sống người dân Hải Xuân vẫn còn khó khăn, do vậy đơn vị của Đức Bình ngoài nhiệm vụ giúp người dân nhanh chóng hàn gắn “vết thương” chiến tranh ra thì còn có nhiệm vụ nữa là bám dân để xây dựng lực lượng tại chỗ.
Ngày ấy o Lành mới tròn hai mươi tuổi nhưng đã tham gia du kích được ba năm. Cô gái Hải Xuân khi đó có nước da bánh mật, mái tóc đen dài, đặc biệt là hễ ai nhắc đến chuyện chồng con thì o Lành lại lảng đi không nói. O Lành xông xáo, nhiệt tình tham gia đều đặn các buổi tuần tra và huấn luyện quân sự.
Thực tình thì anh bộ đội Đức Bình khi ấy chưa có cảm tình gì với o Lành. Mà nếu có cũng chỉ là cảm tình theo cách bộ đội với du kích mà thôi. Rồi cho tới một hôm, cơn sốt rét rừng bất ngờ quay lại giày vò anh. Giữa ngày tháng năm nắng chang chang như đổ lửa vậy mà nằm trên giường toàn thân anh cứ rét run lên. Cơn sốt rét tái phát khiến anh nằm bẹp dí trên giường, môi miệng khô khát. Trong cơn mê sảng chập chờn Đức Bình thấy mình đang trở về nhà. Anh thấy vợ con anh cứ đứng xa xa, họ cứ lùi lại lùi lại. Anh dang rộng đôi tay chực chờ ba mẹ con đến là sẽ ôm thật chặt. Bóng ba mẹ con cứ lùi lũi xa dần. Đức Bình vùng lên cất tiếng gọi. Không có tiếng trả lời. Bóng dáng ba mẹ con xa dần rồi khuất hẳn. Đức Bình cuống cuồng chạy theo. Anh chới với khi vấp ngã. Cú ngã làm anh tỉnh cơn mê. Không thấy ba mẹ con Yến đâu. Chỉ thấy o Lành đang ngồi bên mép giường lay gọi. O Lành mừng rú lên khi Đức Bình tỉnh. O vòng tay đỡ Đức Bình ngồi dậy.
- Eng tỉnh rồi. Eng cố làm miếng cháo.
Một câu nói vẻ dỗ dành. Một câu nói vẻ chân tình. Đức Bình ngơ ngác nhìn quanh. Hình như anh vẫn muốn tìm đâu đó. Hình như anh muốn rõ ràng hơn điều anh mới gặp trong cơn mê sảng.
- Eng cố làm miếng cháo cho khỏe - O Lành nhìn thẳng vào anh - Khiếp. Eng mơ gì mà chân tay cứ khua khoắng lung tung cả.
Bấy giờ Đức Bình mới tỉnh hẳn. Anh chợt thấy cúc áo của o Lành bị tuột ra. “Thôi chết” - Đức Bình chạnh nghĩ - “Không có lẽ lúc mê sảng mình đã vô tình làm tuột cúc áo của o Lành?”.
O Lành thấy Đức Bình nhìn vào chiếc cúc áo bị tuột thì đỏ bừng mặt. Cô vẫn bưng tô cháo mà lén quay ngang cài lại. Đức Bình vờ như không thấy. Anh cúi xuống nắm nắm bàn tay của mình - “bàn tay tội lỗi”, anh nghĩ vậy.
Chờ Đức Bình húp xong nửa tô cháo nóng thì o Lành mới vừa cười vừa hỏi:
- Eng vừa mơ thấy vợ phải không?
Chao ơi. Con gái quả thực là vô cùng tinh tế. Đức Bình cảm thấy ngượng ngùng, anh nói lảng:
- Xa vợ con lâu ngày - Rồi anh ngước mắt nhìn xa xa - Không hiểu ở nhà ba mẹ con cô ấy có đủ ăn không? Nghe nói ngoài Thanh khó khăn lắm.
- Eng đang nhớ nhà? Sắp thắng lợi rồi. Thắng Mỹ xong eng trở về quê không biết có còn nhớ tới... - O Lành lấp lửng câu nói.
Đức Bình bất chợt đưa tay nắm lấy bàn tay o Lành:
- Nhớ lắm chứ. Làm sao quên được những ngày tháng sống cùng bà con.
- Eng nói thế thôi. Về nhà với vợ con chả vui hơn à?
*
Đã tới đầu thôn, nhà văn Mã Giang dừng lại suy nghĩ mông lung: Không biết sáu năm qua Yến có còn nhớ mong đến mình? Không biết hai đứa con gái của mình có nhận được ra bố không? Ngày anh nhập ngũ, đứa con gái lớn của anh tên là Yến Trinh mới lên ba. Còn Yến Xuân, đứa con gái thứ hai, sắp tròn một tuổi. Nhà văn Mã Giang đau đáu nhớ lại. Hôm anh từ biệt vợ con để lên đường, Yến đi bên anh một đoạn đường từ sân kho hợp tác, con đường nhỏ xuyên qua làng dẫn lên dốc đê. Chính dốc đê này đã có bao lớp trai trẻ làng Triêng, bao lớp trai trẻ huyện Hoằng Hóa lên đường ra trận. Không hiểu trong những lớp trai ra đi ngày ấy ai mất ai còn? Không hiểu trong những lớp trai làng ra trận ngày ấy đã có ai trở về? Đã còn ai chưa trở về? Sự trở về có vẻ muộn màng của mình không biết có làm Yến nóng lòng ngóng đợi hay không?
Nhà văn Mã Giang bồi hồi đứng nhớ, anh chưa dám đi vào làng ngay, không phải là để gây bất ngờ cho Yến cùng hai con nhỏ, mà là anh còn cảm thấy hồi hộp đến nghẹt thở. Sáu năm biền biệt. Sáu năm bom đạn là vậy nhưng chưa khi nào anh nguôi nỗi nhớ vợ con. Bây giờ đã đến đầu làng, tự dưng anh lại hồi hộp đến lạ lùng. Yến có khỏe không? Nhớ ngày nào anh cùng Yến đi dạo trên bờ đê. Đó là một đêm trăng thượng tuần mờ mờ ảo ảo, ánh trăng mờ mờ ảo ảo sau đám mây đủ để che giấu giúp anh cảm giác bồn chồn xen hồi hộp. Anh với Yến tuy là người cùng làng thật đấy nhưng hai người chỉ chạm mặt nhau thoang thoảng thoáng qua, theo kiểu chạm mặt giữa thầy với trò trong lớp học. Chả là hồi học cấp hai, lớp 7B của Yến do thầy Đức Bình dạy môn văn. Ngày ấy Yến nhìn cũng xinh xinh, chỉ mỗi tội khá nhút nhát. Cô học trò tên Yến rất chăm chú nghe thầy Bình giảng bài nhưng nếu được gọi lên bảng thì mặt lại ngượng ngùng, xấu hổ.
Nhà văn Mã Giang nhớ lại buổi tối hôm trước khi mẹ anh dẫn anh tới nhà Yến. Nhà cô ấy ở cuối làng, nhà mình ở đầu làng. Thời trai trẻ anh chàng Đức Bình thường hướng tầm nhìn lên bờ đê. Anh chạy một mạch lên đứng trên đê đưa mắt nhìn những đoàn thuyền dong buồm xuôi ra biển. Cậu trai làng mơ tới ngày đi xa, đi thật xa để trở về trong niềm hân hoan của cha mẹ.
Cũng có hôm anh đứng trên đê nhìn từng chiếc bè luồng, bè gỗ chậm nặng trôi xuôi từ miền ngược theo dòng sông Mã về cặp mạn đê. Đó là những hôm anh đứng ngẩn ngơ nghe vọng dưới sông lên câu hò sông Mã. Câu hò cất lên tựa như một bài ca sông nước: “Thuyền tôi ván táu sạp lim/ Đôi mạn sang lẻ có chim phượng hoàng/ Tiện đây mời cả bạn hàng/ Rửa chân cho sạch vào khoang ta ngồi”. Khi ấy, cũng là khi tâm hồn của anh giáo viên dạy văn trường làng xôn xao, dạt dào cảm xúc. Có lẽ niềm yêu văn chương của nhà văn Mã Giang xuất phát điểm từ những câu hò sông nước quê hương?
Xốc lại ba lô, nhà văn Mã Giang đặt những bước chân như đếm, từ đầu làng về tới nhà anh đủ 1000 bước, không hiểu lý do gì mà anh vừa bước đi vừa đếm bước chân mình. Những bước chân chậm chắc dường như tiếp thêm cho anh sức mạnh “Nào. Hai mươi... bốn mươi. Một trăm... bảy trăm…”, sắp tới nhà mình rồi, tim đập nhanh hơn, sự hồi hộp hôm nay còn lớn hơn sự hồi hộp khi mẹ anh dẫn anh tới đầu ngõ nhà Yến.
Hôm đó Yến mặc một chiếc áo cánh nâu mới, chiếc quần lụa đen cũng mới. Cô thoắt phổng phao và xinh đẹp đến không ngờ. Khi bốn mắt chạm nhau, dường như có luồng điện chạy qua. Tim anh giáo Bình đập loạn xạ. Còn Yến, Yến cùng mẹ ra tận cổng đón hai mẹ con anh với ánh nhìn không còn nhút nhát nữa, chỉ đôi gò má của Yến là đang bừng đỏ. Linh cảm đã giúp đôi trẻ mau chóng nên thân. Và một đám cưới gọn gàng, tiết kiệm giữa không khí thời chiến được diễn ra mau chóng. Yến theo chân anh giáo Đức Bình về làm dâu nhà họ Nguyễn làng Triêng.
*
Nhà văn Mã Giang ngập ngừng cất tiếng gọi. Lâu sau từ trong ngôi nhà có một người đàn bà chừng bốn mươi tuổi bước ra. Đến bên cánh cổng, người đàn bà ấy không hỏi và cũng không vội mở cổng. Người đàn bà nhìn nhà văn Mã Giang từ đầu xuống chân rồi lại nhìn anh từ chân lên đầu. Kiểu nhìn như thế độ ba lần thì người đàn bà ấy mới nói:
- Chào ông. Nom ông thấy mạnh là yên tâm rồi.
Câu nói ấy làm nhà văn Mã Giang ngỡ ngàng bởi đó là câu nhận xét hay nói cách khác thì đó là câu như để khẳng định một điều gì.
- Thưa - Nhà văn Mã Giang thận trọng - Tôi đến để tìm o Lành.
- Thì đó. O Lành chuyển vô ký túc xá mấy bữa rồi. Trước khi vô ký túc xá o Lành nhắc tui là nếu thấy ông tới thì xem xem ông có khỏe mạnh không. O biểu tui thế mà tôi cũng thấy o Lành lo cho ông lắm. O Lành biểu với tui là hình như ông có chuyện gì không vui. Chỉ lo ông ốm thôi.
Nhà văn Mã Giang cay cay sống mũi. Đúng là phụ nữ rất nhạy cảm. Dường như chẳng thể giấu họ được một điều gì. Nhà văn Mã Giang nói để biện bạch:
- Tôi vẫn ổn mà. Thế o Lành có để lại địa chỉ của o ấy không?
- Thôi chết. Tui xin lỗi ông. Mải nghĩ điều o Lành dặn nên tui quên mất.
Người đàn bà vội lần lần túi áo rồi lấy ra một tờ giấy gấp tư:
- O Lành biểu. Ông tới theo địa chỉ này.
Nhà văn Mã Giang cầm tờ giấy và nói câu cảm ơn. Người đàn bà lại ngó nghiêng quan sát thêm một lần nữa, miệng lẩm bẩm: “O Lành biểu: Chắc có chuyện gì không vui”.
*
Gần trưa. Nhà văn Mã Giang đã đến cổng nhà. Bên trong vọng ra tiếng trẻ con cười đùa vui vẻ. Anh lắng tai nghe, thú thực chẳng biết giọng đứa nào là Yến Trinh, giọng đứa nào là Yến Xuân cả. Tiếng cười đùa vui vẻ đủ để anh thấy nhẹ lòng “Mẹ con cô ấy vẫn khỏe. Mẹ con cô ấy đang vui vẻ chờ mình”.
Đứng nghe hồi lâu như để ngấm vào lòng những tiếng cười đùa vui vẻ của hai đứa con gái. Nhà văn Mã Giang thấy rộn lên niềm vui gặp gỡ. Anh ngần ngừ rồi cất tiếng gọi. Từ trong nhà, Yến chạy vụt ra, giọng cô lạc hẳn đi:
- Anh đã về - Yến quay lại gọi rối rít - Yến Trinh ơi! Yến Xuân ơi! Cha các con đã về!
Hai đứa trẻ nghe mẹ gọi cũng vội chạy ra. Khi đến trước mặt nhà văn Mã Giang thì cả mấy mẹ con cùng dừng lại. Hai đứa con gái vẻ mặt ngơ ngác nhìn chú bộ đội đang đứng trước cổng mà mẹ chúng nó vừa bảo là: “Cha các con đã về”. Chúng hơi rúm người lại bấu quanh chân mẹ. Nhà văn Mã Giang ngồi như thụp xuống, anh giơ tay chờ đón hai đứa con chạy đến bên mình.
Bất chợt ré lên tiếng khóc trẻ thơ, nhà văn Mã Giang ngẩng nhìn lên. Trên tay Yến đang bế một đứa con trai, nó chừng hơn một tuổi. Anh sửng sốt hỏi:
- Thằng bé này là?
Yến thụt người lùi lại. Theo bản năng hai tay cô ôm giữ chặt thằng bé đang khóc vì sợ. Cô cúi gầm mặt xuống. Hai đứa con gái dường như cảm nhận thấy điều lạ lùng đó nên chúng càng rúm lại bên chân mẹ. Không gian lặng thinh. Mãi lâu Yến nghèn nghẹn nói:
- Nó... Nó...là... là là con em - Yến bất ngờ cúi gập người - Em dập đầu xin lỗi anh.
Nhà văn Mã Giang đứng sững như trời trồng, cơ hàm của anh căng bạnh, vành môi giật giật. Anh thấy đau nhói vùng bụng. Tất cả đều nín lặng. Lâu sau nhà văn Mã Giang mới chợt tỉnh, anh run run gỡ chiếc ba lô đang đeo sau lưng xuống. Rồi lặng lẽ lấy ra hai con búp bê và đưa cho hai đứa con gái. Ngần ngừ giây lát rồi anh lấy ra một gói mềm mềm.
- Đây là quà cho em... Anh. Anh phải đi luôn.
- Anh mới về... thì cũng để cho hai con được gần cha nó.
- Anh chỉ được phép qua nhà mười lăm phút thôi - Nhà văn Mã Giang nói dối - Xe đang đợi ngoài chân dốc đê - Cúi xuống giơ tay đón hai đứa con gái, nhà văn Mã Giang nói - Thời gian đã hết. Mấy mẹ con ở nhà mạnh khỏe.
- Anh đi luôn ư? - Yến thảng thốt hỏi lại - Anh vừa mới về nhà mà.
Nhà văn Mã Giang đứng dậy, anh quay người khoác ba lô đi nhanh, Yến không chạy theo, hai đứa con gái không hiểu lý do gì bỗng òa khóc. Thằng bé trên tay Yến khóc to hơn. Nhà văn Mã Giang đi nhanh. Anh đi như muốn chạy trốn. Cơn đau quặn bụng lại dấy lên dữ dội.
Vĩ thanh.
Sáng nay, ngày 26 tháng 3 năm 2025, chọn đúng ngày kỷ niệm 50 năm giải phóng Huế, bà Lành dậy sớm. Bà đưa một gói vải tươm tất cho hai cô con gái là Yến Thanh và Yến Hải:
- Mẹ đi có việc. Chắc nửa tiếng sẽ về. Hai con giúp ba mặc bộ này nhé.
Nhà văn Mã Giang xua xua tay:
- Cũng phiên phiến thôi. Tôi thấy long trọng quá.
- Chứ không - Bà Lành vừa cười vừa nói - Ba mấy đứa mặc bộ đồ này để còn chụp ảnh đại gia đình nữa.
Đó là bộ trang phục áo dài đỏ, khăn xếp đỏ, một bộ trang phục theo truyền thống ngoài Bắc dành cho dịp mừng thượng thọ các cụ ông. Nhà văn Mã Giang nhìn hút theo dáng bà Lành:
- Không hiểu bà ấy chuẩn bị từ khi nào? - Rồi nhà văn Mã Giang nói với chính mình - Cám ơn o Lành. Mấy chục năm qua o luôn chu đáo với tôi.
Hai chị em Yến Thanh với Yến Hải được sự trợ giúp của hai chàng rể nên chẳng mất bao lâu đã mặc xong bộ trang phục cho ba. Mấy đứa chắt chạy vòng quanh cố ngoại, vừa chạy chúng vừa vỗ tay hát bài “Happy birthday” làm rổn rang cả ngôi nhà, cứ y như hôm nay là sinh nhật của chính chúng vậy. Nhà văn Mã Giang ngượng ngùng trong bộ trang phục, ông lại nhìn ra ngoài cổng:
- Bà ấy đi đâu thế nhỉ?
Đúng nửa tiếng sau, có tiếng ô tô đậu dừng ngoài cửa, bà Lành mặt mày rạng rỡ, miệng cười vui vẻ đi trước, phía sau bà là một nhóm người trang phục cũng rất trang trọng. Nhà văn Mã Giang thoáng giật mình khi nhận ra những người đi sau bà Lành là bà Yến, phía sau bà Yến là cô chị cả Yến Trinh đi cùng chồng, bên cạnh là cô thứ hai Yến Xuân cũng đi cùng chồng, phía sau nữa là đoàn cháu chắt rộn rã tiếng chào ran ran. Nhà văn Mã Giang lại thêm ngỡ ngàng khi người đi sau cùng là Thanh Giang đi cùng vợ và các con của Thanh Giang.
Lễ mừng thượng thọ diễn ra long trọng, nhà văn Mã Giang thoáng ngài ngại khi thấy bà Lành sắp ba chiếc ghế, ông được mời ngồi chiếc ghế kê chính giữa. Rồi bà Lành đỡ tay bà Yến đến ngồi ở chiếc ghế bên phải. Bà Yến ngần ngừ từ chối cũng không được đành miễn cưỡng ngồi xuống. Thấy hai người ngồi hơi nhích ra thì bà Lành bước tới làm động tác ra hiệu để bà Yến ngồi sát gần. Bà Lành chủ động ngồi xuống chiếc ghế bên trái. Các cô con gái cùng các chàng rể đứng phía sau cặp nào đứng bên cặp nấy. Còn mấy đứa cháu chắt xúm xít đứng trước hai bên cạnh hàng ghế.
Tiếng máy ảnh bấm xoành xoạch cùng những ánh chớp đèn Flash lóe lên. Chừng như nội dung chụp ảnh “đại gia đình” đã xong, bất ngờ Thanh Giang tách khỏi hàng, anh bước tới đứng trước mặt nhà văn Mã Giang cùng bà Yến với bà Lành và nói:
- Thưa ba Bình - Thanh Giang ngập ngừng vài giây rồi nói tiếp - Suốt năm mươi năm qua chị em chúng con luôn biết ơn ba. Tuy ba không sống cùng chị em chúng con nhưng tình cảm ba dành cho chị em chúng con chưa khi nào nguôi cả - Lại ngập ngừng, Thanh Giang nói tiếp - Ba Bình đã tạo dựng cho chị em chúng con từ việc học đến việc làm. Ba đã đón mấy chị em chúng con từ quê nhà vào Huế để lập nghiệp. Ba còn đứng ra lo toan dựng vợ gả chồng cho chị em chúng con. Chị em chúng con có được như ngày hôm nay là nhờ ơn ba. Ba còn đón mẹ Yến vào đây để mẹ con được gần gũi chị em chúng con.
Nhà văn Mã Giang lặng im, trong lòng ông dấy lên bao cảm xúc. Sau cái bữa khi ông đường đột bỏ đi ông có nhiều day dứt “Cô ấy còn quá trẻ nên không ghìm được lòng. Đó chỉ là phút giây yếu mềm khi xa vắng chồng lâu ngày. Cô ấy không có lỗi. Nhưng nếu mình ở lại và chấp nhận thì lòng tự trọng lại không cho phép”.
Thanh Giang quay sang phía bà Lành:
- Con xin phép được thay mặt mẹ Yến và thay mặt hai chị con. Thưa cô Lành. Mẹ con đã bảo: “Mẹ không giữ trọn được mình. Mẹ đã sai nên mẹ không bao giờ trách cứ gì ba Bình. Các con hãy thay mẹ cám ơn cô Lành, cô Lành đã đảm đương việc mà mẹ còn dang dở”. Chị em chúng con vô cùng biết ơn cô Lành. Chúng con biết cô không chỉ đảm đương công việc thay mẹ Yến mà cô cũng suốt mấy chục năm qua luôn đồng hành cùng ba Bình trong mọi công việc. Cô đã xoa dịu nỗi đau con tim của ba Bình. Cô đã cùng ba Bình giúp chị em chúng con để chị em chúng con có được như ngày hôm nay - Rồi Thanh Giang nhìn vào nhà văn Mã Giang - Với riêng con, con tuy không phải là con đẻ của ba nhưng những gì mà ba đã làm cho con còn hơn con đẻ.
Tức thì, cả bốn cô con gái cùng bốn chàng rể, cùng đàn cháu chắt đứng dàn thành hàng ngang bên cạnh Thanh Giang. Tất cả đều cúi người chắp vái năm vái nhà văn Mã Giang cùng bà Yến, bà Lành:
- Tất cả năm chị em chúng con xin kính chúc ba Bình sống thọ. Xin chúc mẹ Yến với mẹ Lành mãi mãi bên năm chị em chúng con.
Bầy cháu chắt tức thì đồng loạt vỗ tay, lời bài hát “Happy birthday” lại vang lên rộn ràng. Nhà văn Mã Giang quay sang nhìn bà Yến, ông mỉm cười rồi gật gật đầu. Nhà văn Mã Giang quay sang nhìn bà Lành, ánh mắt của ông ánh lên niềm chan chứa.
Từ rất xa như vẳng lại câu hát: “Sao đêm đêm nghe náo nức/ Đây tiếng con tàu hay tiếng con tim em/ Ơ cây lúa quê mình xanh biếc nhớ thương”.
Hà Nội, 10-8-2025
N.T.V