NGỌC THỨ
Mùa quất trổ hoa
Truyện ngắn dự thi
Chị tỉnh dậy khi cảm thấy có bàn tay ấm áp của anh đang day day bên hai thái dương. Đôi mắt u buồn của chị nhìn vào khoảng xa vắng, dưới ánh đèn ngủ mờ nhạt, trông chị thật đẹp, một vẻ đẹp đủ độ chín, đoan trang và dịu hiền. Mái tóc để xõa che gần hết chiếc gối loang lổ vì những giọt nước mắt. Chị đưa hai tay nắm lấy bàn tay anh, cảm thấy yên lòng. Gió từ ngọn núi Ngàn Nưa thổi qua cánh cửa khép hờ, mơn man đôi má còn hằn dấu giọt lệ vừa lăn, mơn man cả khuôn ngực căng đầy dưới làn áo mỏng.
*
Đêm vùng quê bức bối, trời ong ong như sắp chuyển mùa. Thi thoảng, những ánh chớp kèm theo tiếng sấm ì oàng vọng về từ chân trời xa. Không gian đặc quánh, khó chịu. Cứ như người đàn bà quằn quại trong cơn đau vượt cạn mà mãi chẳng thể vượt qua. Chị nằm và khát khao một cơn mưa. Trong đời, chưa bao giờ chị mong mưa đến thế. Cả vườn quất cảnh đang vào mùa trổ hoa, những nụ hoa căng tức mà không thể nứt ra. Chỉ cần một cơn mưa thôi là những nụ hoa kia sẽ đồng loạt bung ra thành vườn hoa trắng. Cả xã Hợp Tiến này đều nghĩ chị điên. Làm ruộng thất thu, hạt lúa thu về không đủ tiền công, tiền giống… Người dân thi nhau trả lại ruộng thì chị cứ nhận thêm. Tưởng để làm gì, ai ngờ lại đi trồng quất cảnh. Có người nói: “Giời ạ. Gạo chẳng có mà ăn còn đua đòi trồng quất cảnh. Có ngắm quất cảnh thay ăn được không?”, có người còn xỉa xói: “Tưởng dễ húp lắm hả. Húp được, người ta đã húp hết rồi, không đến lượt bà nhá”.
*
Thời còn là thanh niên xung phong, chị được mệnh danh là nữ hoàng phá bom nổ chậm. Hình ảnh và tên tuổi của chị lan dọc dài theo những cung đường Trường Sơn lửa cháy. Nhưng dưới con mắt của người dân nơi xóm nghèo này, chị chỉ là một con đàn bà chửa hoang. Nhiều người thấy tiếc cho chị: “Ai đời, con gái còn trẻ, đẹp như hoa đồng nội lại đùng đùng xin đi thanh niên xung phong. Đã thế, khi về còn mang theo một đứa con vừa chập chững biết đi. Chưa nở đã tàn, phí một đời hoa”. Mẹ chị buồn, sinh bệnh rồi mất. Ba năm sau, bố chị cũng đi xuống nơi chín suối tìm bà. Từ ấy, chị lầm lũi như người không hồn, chẳng giao du với ai. Hai mẹ con cứ âm thầm vượt qua những tháng ngày sóng gió của thời bao cấp.
Thời gian cứ lặng lẽ trôi, cho đến khi thực hiện khoán sản, chị như người bị trói lâu ngày, nay được mở. Lòng nhiệt huyết cùng khát vọng vươn tới của “cô gái Trường Sơn” ngày nào nay có cơ hội vẫy vùng. Chị làm như điên, suốt ngày quần quật với những sào ruộng khoán. Làm để quên đi sự tủi nhục, làm vì tương lai của con gái chị.
Hình như chị điên thật. Khi cả làng trồng lúa thì chị lại trồng khoai lang Nhật Bản. Trồng trong mảnh vườn nhà chị đã đành, đằng này cả mấy sào ruộng nơi đồng cao chị cũng lên luống trồng khoai. Ai nói gì cũng mặc. Ai ngờ năm đó hạn lớn, những bông lúa bạc trắng, phơ phất như những bông lau thì khoai của chị cứ nhung nhúc những củ như lợn con. Một cân khoai có giá hơn cả cân thóc mà không có để bán. Xe tải ở đâu cứ về bốc hết chuyến này đến chuyến khác chuyển ra thành phố. Cái số chị giàu. Dân nơi đây bảo thế. Nhà chị đang nằm khuất nẻo nơi bìa làng, tự nhiên Nhà nước mở con đường Nghi Sơn - Sao Vàng đi dọc mảnh vườn hoang nhà chị. Vừa có tiền đền bù, vừa có cả trăm mét đất mặt tiền ngay con đường rộng lớn.
*
Đúng thời điểm ấy thì bố con bé trở lại và nói: “Anh sai rồi. Bây giờ không còn công tác Nhà nước nữa, anh sẽ giành thời gian chăm sóc mẹ con em, bù lại những gì đã làm mẹ con em khổ”. Vẫn biết hắn là người miệng lưỡi, nhưng vì thương con nên chị im lặng như một sự chấp nhận. Những ngày đầu, hắn lo cho chị thật. Dưới bàn tay hắn, ngôi nhà cũ kỹ trở nên sáng sủa, tươm tất. Hắn cũng ra đồng nắng mưa cùng chị. Chiều xuống, thấy hắn tắm rửa cho con, chị mỉm cười mãn nguyện. Có hắn, chị như trẻ lại thời con gái. Mái tóc dài không còn búi cao như thời ở Trường Sơn mà luôn để xõa, bay bay trong gió. Hắn yêu mái tóc dài của chị. Đêm, hắn thường dúi đầu vào mái tóc đó mà hít hà cái mùi hoa bưởi còn vương vất sau những lần gội, tận hưởng hương vị tình yêu như cái đêm ở căn phòng Cửa hàng trưởng cửa hàng thực phẩm, gần trại điều dưỡng, nơi chị nằm dưỡng thương ngày nào.
*
Cùng năm ấy, có đội công nhân đến xây chiếc cầu trên con đường mới mở, ngay gần nhà chị. Họ ngỏ ý muốn thuê đám đất vườn nhà chị để dựng lán cho công nhân ở tạm, họ nói: “Đất nhà chị sát mặt đường, lại gần nơi thi công, thuận tiện cho xe chở vật liệu và anh em chúng tôi đi về”. Thấy đất để không cũng phí. Chị cho thuê kiếm chút tiền rau dưa.
Đội công nhân dựng cái lán nhỏ đủ cho bốn, năm người ở tạm hằng đêm, bên trái nhà để xi măng, sắt thép. Nghe anh Long - đội trưởng đội xây cầu nói: “Cầu chỉ bắc qua một lạch nước nhỏ nối hai cánh đồng, chỉ xây hai mố rồi lao dầm qua, chắc cũng nhanh nên không đòi hỏi nhiều người”.
Người đội trưởng có vẻ kiệm lời, chững chạc và yêu trẻ con. Mỗi lần anh về cơ quan, khi quay lại công trường bao giờ cũng mua cho bé Hà - con chị, những món quà nhỏ. Anh còn dạy bé hát, múa như một cô giáo mầm non. Mỗi lần ra giếng lấy nước, vô tình gặp chị đang giặt giũ, anh thường múc nước cho chị. Chẳng biết từ bao giờ chị thấy mến anh, mến cả con Vện của anh. Dường như biết chị là chủ nhà, con Vện cứ quấn lấy chị. Chị thấy vui mỗi khi mang cho nó ít xương sau bữa ăn. Những lúc ấy nó cứ nhìn chị như muốn nói lời cảm ơn. Nghe bước chân của chị từ xa nó đã chạy đến, ngoe nguẩy cái đuôi rồi thân thiện liếm liếm vào bàn chân xanh gầy của chị.
Phía sau lán của đội công nhân, có một cây quất. Đó là cây quất được chị mua về chơi tết. Qua tết, chị đem trồng đại ngoài vườn. Do không được tưới tắm, cây quất có phần già cỗi. Từ khi có đội công nhân đến ở, ngày nào các anh cũng đổ nước vo gạo, nước rửa rau… vào gốc. Cây quất như trở mình, mạnh mẽ vươn lên. Anh Long khéo tay lắm. Anh thường ngắm nghía rồi cắt tỉa, uốn cành, hái bỏ những hoa, quả trái vụ. Giữa năm đó, cây quất trông thật đẹp với trăm ngàn bông hoa trắng tinh khôi. Anh nói với chị: “Đất ở đây tốt lắm, mịn và thâm nâu như bột mỳ nhào mật ong. Đất này rất hợp với cây quất. Chị nên trồng vài chục gốc, chịu khó chăm bón, tết cũng có món tiền kha khá đấy chị. Quê tôi, người ta sống bằng nghề trồng quất cảnh đó”. Chị nghe theo. Được các anh công nhân tranh thủ giúp đỡ, dưới sự chỉ dẫn của anh Long, chị mua loại cây giống đã lớn về trồng. Người đội trưởng còn hướng dẫn chị cách bón các loại phân, nói chị mua máy bơm để bơm nước từ chân cầu tưới cho vườn quất. Từ đấy, chẳng bao giờ thấy chị ngơi tay. Hết ngoài đồng lúa chị lại ra vườn quất nâng niu từng cọng lá, mầm cây. Trời chẳng phụ công người, chẳng bao lâu, chị đã có một vườn quất xanh tươi, đầy hứa hẹn.
Từ ngày có vườn quất, tình cảm giữa các anh công nhân và chị như gần gũi nhiều hơn. Chiều chiều, chị ra tưới vườn, các anh công nhân lại tranh nhau cầm vòi nước tưới giúp chị. Một chiều, thấy chị tưới vườn, anh Long đến bên chị: “Chị để tôi tưới cho” - nói rồi anh vội cầm lấy vòi nước. Chẳng hiểu vô tình hay chủ ý, bàn tay anh nắm lên tay chị khi chị đưa vòi nước cho anh. Một chút bối rối trào dâng nơi chị. Bàn tay anh chai sần nhưng chị cảm thấy vững chãi, tin cậy.
Bà con lối xóm đi ngang, nhìn vườn quất của chị ai cũng khen, có người còn hẹn: “Tết này nhớ để cho tôi một cây đấy nhé”. Lòng chị trào dâng một cảm xúc khó tả. Chị đứng lặng, nhìn mảnh vườn bạt ngàn hoa trắng, trông như những gò tuyết tinh khôi, rưng rức lòng người, nước mắt chị cứ muốn trào ra. Tết năm đó chị trúng lớn. Niềm đam mê với cây quất cảnh cứ lớn dần, lớn dần. Chị mua sách hướng dẫn cách trồng, cách chăm bón quất về đọc. Rồi chị quyết định mở rộng thêm diện tích và thuê hai bác trai trong xóm chăm bón giùm. Nghe anh Long bảo: “Để cây quất trở thành hàng hóa, cần nhiều gia đình cùng trồng. Buôn có bạn, bán có phường mà chị. Có thế mới tạo ra được thương hiệu quất Hợp Tiến chị ạ”.
*
Từ ngày con đường Nghi Sơn - Sao Vàng được mở, ngôi làng hẻo lánh của chị trở nên ồn ào. Quán cà phê, quán bún… thi nhau mọc lên hai bên đường. Cò đất ở đâu kéo về làm giá, xôn xao cả xóm nghèo. Hắn bảo: “Được giá, bán quách đi, lấy tiền ra thị trấn Giắt làm ăn cho nhàn cái thân”. Chị sững sờ. Chưa bao giờ chị có ý nghĩ rời xa mảnh đất cha ông. Chị yêu mảnh đất này, yêu những con người nông dân chân chất, nặng nghĩa, nặng tình.
- Không. Chẳng bao giờ em bán mảnh đất này đâu. Em sống ở đây và chết cũng ở đây.
- Cô ngu lắm. Cô nghĩ mấy gốc quất kia sẽ giúp cô đổi đời ư? Nghe ai chẳng nghe lại nghe theo mấy thằng suốt ngày làm bạn với xi măng, cát sỏi. Không thức thời. Còn khổ.
Ừ. Có khi hắn đúng. Thời còn làm Cửa hàng trưởng cửa hàng thực phẩm, hắn chẳng được đánh giá là người năng động, dám nghĩ, dám làm là gì? Rồi cũng vì cái gọi là “năng động” ấy mà hắn bị kỷ luật. Cái chức cửa hàng trưởng giờ đã là kỷ niệm về một “thời vàng son” của hắn.
*
Thời gian thấm thoát trôi. Chiếc cầu đã nối liền hai đầu lạch nước. Công nhân chuyển đi công trường khác cách đó không xa, chỉ còn anh Long chạy đi, chạy lại để hoàn tất các thủ tục nghiệm thu. Mỗi lần anh đi công trường mới, con Vện được anh gửi lại cho chị chăm. Con Vện cứ nhẫn nại nằm bên trái lán để canh chừng ít xi măng, sắt thép còn lại. Mỗi lần chị mang đồ ăn ra, nó cứ ư ử như muốn nói với chị điều gì. Những lúc ấy chị vui, vuốt ve nó như vuốt ve người bạn thân. Cho đến một chiều, con Vện chạy đến bên chị, kêu thảm thiết. Nó vật vã, quay cuồng, nước dãi chảy dài trên miệng. Chị cuống quýt ôm nó và gọi bé Hà pha nước đường đổ cho nó uống. Chắc kẻ xấu đã đánh bả để có cơ hội ăn trộm sắt thép, xi măng. Bỗng con Vện ưỡn người, duỗi hai chân sau thẳng ra, ngước mắt nhìn chị. Từ hai hốc mắt của nó ứa ra hai giọt nước. Rồi đôi mắt của nó từ từ khép lại. Nước mắt chị cũng tuôn trào. Chiều muộn, anh về không thấy con Vện ra đón như mọi khi, linh tính đã cho anh biết có chuyện gì xảy ra. Anh chạy vào nhà chị. Chị vẫn ngồi bên con Vện với hai dòng nước mắt lăn dài. Đôi mắt anh đượm buồn rồi ứa ra hai giọt nước đỏ bầm như máu. Trong đời, đã bao lần chị nhìn thấy nước mắt đàn ông nhưng chưa bao giờ thấy những giọt nước mắt kỳ lạ như vậy, nó đặc quánh như hai hạt đỗ, đọng lại trên gò má rám nắng của anh.
- Anh tiếc con Vện lắm phải không?
- Không phải tiếc, mà anh thương. Nó như là người thân duy nhất còn lại của gia đình anh.
Tim chị như có gọng kìm bóp chặt. Chị nhìn anh, im lặng. Chẳng dám hỏi thêm gì. Rồi anh lẳng lặng đi về lán, lấy mấy miếng ván cốt pha ghép thành chiếc hòm nhỏ, cùng chị ngậm ngùi chôn nó ngay trong góc vườn quất.
*
Chiều muộn, chị tỉnh dậy, nhìn thấy anh ngồi bên cạnh. Anh khẽ khàng: “Tôi về từ chập chiều nhưng không thấy chị, hỏi bé Hà mới biết chị ốm, tôi vội vào. Bệnh tình thế nào vậy chị?”. Chị không đáp, đôi mắt thẫn thờ nhìn lên trần nhà.
- Mất hết rồi anh ạ.
- Chị nói sao?
- Thằng khốn nạn ấy đã lừa em, hắn cầm số tiền đền bù, tiền em dành dụm lâu nay bảo để đi mua vật liệu sửa nhà nhưng hắn đã bỏ đi cả tuần rồi.
Anh ngồi yên lặng. Cảm thấy thương chị đến nao lòng. Khốn nạn. Cú sốc đã quật ngã chị. Anh nhẹ nhàng nắm bàn tay trắng xanh của chị như sự sẻ chia. Chị khẽ khàng:
- Anh em chuyển hẳn đi rồi, còn anh?
- Chị yên tâm, đây lên công trường mới cũng gần, tôi chạy xe loáng cái là tới.
Tự nhiên mắt chị cay xè. Chẳng hiểu tự bao giờ, chị thấy vui khi nghe những bước chân, những tiếng nói của các anh công nhân. Khi mọi người chuyển đi, khu vườn trở nên hoang vu, chị cũng thấy trống vắng. Có cái gì như là sự mất mát đang lớn dần trong chị. Bóng đêm như chiếc màn đã thả xuống từ lúc nào. Anh vẫn lặng lẽ ngồi bên mé giường. Gió từ ngọn núi Ngàn Nưa thổi vào nhà, mát lạnh. Bất chợt chị ngồi dậy, đưa hai tay ôm lấy anh. Hơi thở như gấp gáp hơn, chị nhắm mắt, chờ đợi. Người anh cứng đơ trong vòng tay siết chặt của chị. Đúng lúc ấy, bé Hà ngủ mơ, ú ớ: “Mẹ ơi, mẹ ơi…”. Đôi tay chị rời anh, quay sang vỗ về bé Hà. Anh cố nén một hơi thở dài rồi vội đứng dậy, lặng lẽ bước vào trời đêm mênh mông. Lòng anh nặng trĩu. Chị nằm thẫn thờ, rã rời, hụt hẫng.
*
Sáng sớm, nghe tiếng gọi cửa. Chị kéo chăn kín đầu: “Anh còn đến đây làm gì? Tôi không muốn nhìn thấy anh, không muốn nghe anh nói gì nữa”. Tiếng gõ cửa vẫn vang đều: “Em Hùng đây chị ơi!”. Chị thẫn thờ chui ra khỏi chăn, đi về phía cửa:
- Chú Hùng à. Anh Long đâu?
- Anh Long sốt cả đêm qua. Anh ấy bảo em đến thanh toán tiền thuê đất và lo cơm nước giùm khi chị ốm đau. Anh Long tội lắm, không vợ, không con. Cứ lầm lũi một mình.
- Anh Long chưa có vợ ư?
- Có. Nhưng chị ấy đã mất cách đây hơn chục năm. Chị ấy đã hai lần sinh nở. Lần đầu là đứa con trai dị tật, chân tay khòng khoèo, co quắp. Nó nằm một chỗ được ba năm rồi mất. Đến đứa thứ hai, chị bị sốc nặng khi nhìn thấy con mình chỉ là một vật dị dạng. Chị ấy ngất lịm và đi cùng với nó. Từ ấy, anh Long cứ lầm lũi một mình.
Chị lặng người khi nghe Hùng kể. Có cái gì nghèn nghẹn nơi cổ, nước mắt tự nhiên ứa ra.
- Sao các em không động viên anh ấy đi bước nữa? Con trai sống một mình khổ lắm.
- Có đấy chị. Bọn em vẫn động viên, nhưng anh ấy luôn nói không. Có lần anh ấy tâm sự: “Tớ từng là người lính làm những cây cầu qua các con suối ở dọc dài Trường Sơn. Đã từng phải dùng khăn mặt nhúng nước bịt kín mặt mũi khi đi qua những cánh rừng trụi lá. Tớ phục viên với tờ giấy chứng nhận bị phơi nhiễm chất độc da cam. Sau hai lần sinh của vợ, tớ biết mình không thể đem lại hạnh phúc cho bất kỳ người con gái nào. Tớ tham gia đội xây dựng cầu của các cậu những mong ở nơi xa xôi, vắng vẻ dễ tránh đi những cám dỗ đời người. Anh Long cứ khen chị đẹp và tốt. Anh ấy còn nói thương chị, thương bé Hà, nên bảo em đến giúp chị lúc ốm đau”.
Hùng nói một lèo, cứ như súng bắn liên thanh. Chị nghe mà lòng nặng trĩu, cảm thấy thương anh, thương người cựu binh đã có một thời lăn lộn giữa những cánh rừng Trường Sơn như chị.
- Hùng này, em về đi. Nói với anh Long rằng tiền này chị không lấy đâu. Chị nghèo nhưng chị không phải sống vì tiền. Cái chị cần còn quý hơn cả tiền cơ. Chỉ mong anh Long và các em thi thoảng ghé lại nhà chị chơi.
Hùng về. Gian nhà trở nên trống vắng. Từ hai khóe mắt chị tự nhiên ứa ra hai giọt nước. Bé Hà ngơ ngác: “Sao mẹ khóc, mẹ nhớ bác Long ư? Con cũng nhớ bác Long”. Chị ôm bé Hà vào lòng rồi khóc hu hu. Nước mắt chị ào ạt trào tuôn như vòi nước không khóa. Rồi cứ thế, chị dẫn bé Hà đi qua vườn quất, tiến về phía cái lán trống hoang. Bỗng nhiên bé Hà hỏi: “Bao giờ bác Long về hả mẹ?”. Chị yên lặng. Rồi như có ai xui khiến, chị tự tin trả lời: “Đến mùa quất trổ hoa con ạ”.
*
Dường như vườn quất là chất keo kết nối chị với bà con lối xóm. Họ đến với chị nhiều hơn. Nghe theo lời anh Long, bàn chân một thời lặn lội trên dọc dài các cung đường Trường Sơn của chị giờ lại lặn lội khắp thôn trên, làng dưới để gặp gỡ, tư vấn, động viên bà con ngoài trồng lúa, trồng thêm cây quất cảnh: “Như vậy mình vừa không để đất hoang, vừa tận dụng được thời gian lúc nông nhàn, lại tận dụng được nguồn phân chuồng, giảm ô nhiễm… Tết đến cũng có đồng ra, đồng vào bác ạ”. Nhìn chị với nụ cười không mệt mỏi, chiếc áo cánh lấm tấm mồ hôi, chiếc nón lá đong đưa theo nhịp chân vội vã, mới biết chị nhiệt huyết và quyết tâm đến nhường nào. Nghe chị, nhiều gia đình đã trồng theo và những vườn quất cảnh trong xóm cứ thế tăng lên, tăng lên. Chị còn đi mời cán bộ kỹ thuật trồng trọt của huyện về nói chuyện, hướng dẫn bà con cách chăm bón. Vất vả nhưng lòng chị ngập tràn niềm vui. Mỗi độ trời vào thu, những vườn quất đồng loạt trổ bông, xóm nghèo như được khoác lên mình chiếc áo màu trắng tinh khôi, hương thơm ngào ngạt. Khách ở đâu cứ kéo về từng đoàn, từng đoàn xin vô vườn quất chụp ảnh. Những ngày giáp tết, cả xóm như có hội. Xe tải, xe máy ở đâu kéo về, người chọn cây này, kẻ chọn cây khác. Nhộn nhịp, lao xao. Cái tên “Quất Hợp Tiến” theo đó mà bay xa, bay xa. Vậy là bên cạnh việc đồng áng, bà con trong xóm lại có thêm nghề trồng quất cảnh. Thời gian nhàn rỗi giảm đi nhưng niềm vui thì tăng lên thật nhiều. Cuộc sống của người dân nơi xóm nghèo giờ đã đổi khác. Nhà nhà, người người đều muốn vươn lên từ chính mảnh đất quê hương. Những giọt mồ hôi thấm trên đồng đất của làng đã được bù đắp. Xóm thôn như xanh hơn, đẹp hơn và giàu hơn. Ở đâu cũng rộn rã tiếng nói, tiếng cười. Dường như ai cũng vui và thầm cảm ơn chị đã giúp họ tìm ra con đường đi mới, rộng mở và có tương lai. Họ thường nói với nhau: “Con bé ấy trông vậy mà khá. Đã chăm chỉ, giỏi giang, dám nghĩ, dám làm lại còn có tâm”. Thế đấy, ánh sáng của lòng tốt đôi khi được thắp lên từ những con người bình dị nhưng nặng lòng với quê hương, xứ sở; Những người dù gặp nhiều sóng gió nhưng luôn giàu tình thương, sự sẻ chia và khát vọng vươn tới.
*
Từ ngày đội công nhân chuyển đi, nỗi nhớ người đội trưởng cứ len lỏi trong giấc ngủ không sâu của chị. Đêm nay cũng như bao đêm khác, trái tim chị lại thổn thức nhớ, thổn thức buồn. Chị kéo nhẹ tấm chăn đắp cho bé Hà rồi khẽ khàng đi ra khỏi cửa. Cứ thế, chị âm thầm bước trên lối mòn đẫm sương dẫn qua vườn quất đến bên chân cầu. Chị đứng lặng nhìn dòng nước, mặc cho những sợi tóc cứ theo gió quấn quýt trên khuôn mặt đã hằn dấu thời gian. Nước mắt chị tự nhiên lăn dài. Câu nói “Con vện như là người thân duy nhất còn lại của gia đình anh” cứ ám ảnh chị. Câu nói như một mũi dùi nung đỏ chích vào tâm can. Rồi chị thì thầm: “Anh đừng buồn nữa. Đã có em và con bên anh”. Chị cứ nghĩ miên man trong tiếng róc rách của dòng nước chảy dưới chân cầu. Chị như nghe cả tiếng tí tách của trăm ngàn nụ hoa nơi vườn quất đang nứt ra. Hương thơm nhẹ bay trong gió. Lao xao, lao xao.
N.T