TRẦN MAI LAN
Người con của bản
Truyện ngắn dự thi
Nghiêm dừng xe trên đỉnh dốc, đưa mắt nhìn bao quát một lượt những ngọn núi xanh mướt trước mắt, bên dưới thung lũng là bản Năng Cát thân thương nằm nép mình dưới những ngọn đồi xanh tươi. Một cảm giác khoan khoái dễ chịu lan tỏa. Đã rất nhiều lần khi qua đây Nghiêm đều dừng lại, dù chỉ để hít thở một chút bầu không khí trong lành, để nghe làn gió mơn man quanh mình, để chạm vào lớp vỏ xù xì của cây mà cảm nhận những mạch nguồn dưỡng chất đang đi lên từ lòng đất mẹ, nuôi cây khôn lớn. Nhắm mắt lại và tưởng tượng, Nghiêm thấy mình cũng giống như cây xanh kia, đang được nuôi dưỡng và che chở từ vòng tay của núi rừng, thôn bản, để lớn khôn và trưởng thành như ngày hôm nay.
Già làng A Nhân chính là người cha thứ hai của Nghiêm, ông đã đưa Nghiêm về bản nuôi nấng từ khi còn trứng nước. Từ ngày ấy tới giờ vậy mà đã gần ba mươi mùa tết cơm mới trôi qua. Nghiêm chỉ biết gốc gác của mình qua lời kể của pá Nhân mà thôi, bố mẹ anh là người Kinh dưới xuôi lên đây kiếm sống và khai thác vàng trái phép. Những cánh rừng nguyên sinh bao năm xanh tốt, yên bình hòa thuận cùng dân bản nơi đây. Rừng cho thức ăn từ các loại hoa quả, đọt mầm rau xanh, cho củi đốt từ những thân cành cây lá, cho mạch nguồn trong lành, cho khí hậu mát mẻ... Vậy mà một ngày kia từng đoàn người lầm lũi vào rừng, họ hạ trại và bắt đầu đào khoét, làm bộ mặt của rừng nham nhở. Tiếng cuốc, tiếng choòng thậm thịch ngày đêm đuổi muông thú, chim chóc chạy toán loạn, nguồn nước dưới khe đục ngầu, đóng vánh đến nỗi không thể dùng để ăn và tắm giặt được nữa. Toán người đó mang đến bản làng những hành vi kém đạo đức, đầu độc thanh niên và trẻ nhỏ những tệ nạn xấu xa, nhồi nhét, tuyên truyền văn hóa chụp giật, tàn sát lẫn nhau.
Có lần chính già làng A Nhân bị bọn chủ bưởng gạ gẫm với những lời lẽ vừa mơn trớn vừa đe dọa.
- Già cho tụi tôi cái súng săn già đang dùng kia nhé!
Già nheo nheo đôi mắt ước chừng tụi nó nói đùa hay thật, hỏi lại:
- Bây muốn ta đổi lấy thứ gì?
Tên đầu chòm nhếch mép cười khẩy:
- Già thích thứ gì tụi này chiều thứ đó. Trâu, bò hay tiền, tình, “mai thúy”… tụi này đều có cả… hí hí…
- Chúng mày từ đâu đến phá nát rừng xanh muôn đời nơi đây, giờ lại còn gieo rắc cái chết trắng ư? Không, tao không thể tiếp tay cho tụi mày để làm những điều xấu, điều ác cho dân bản được. Tụi bay đi đi, đừng bao giờ vào bản quấy nhiễu nữa nghe chưa? - Tên đó đá đá mũi giày vào mẹt ngô giữa sàn nhà làm chúng bắn tung tóe.
- Lão già, làm gì mà như hổ mang nhe nanh dữ tợn vậy? Ông không muốn thế nhưng cái bản này, rồi mấy cái bản bên kia núi, bao nhiêu người muốn xin đi theo chúng tôi kiếm tiền… Rồi ông xem cả bản sẽ theo tụi tôi hết. Họa có thằng ngu mới chê tiền thôi lão già ạ… ha… ha… ha!
Tiếng cười thô bỉ lùi dần xuống chân cầu thang, nghe như tiếng thủy tinh vỡ dưới cái nắng quái một chiều hè oi bức, ngột ngạt. Dạo này trong bản thường xảy ra những vụ trộm lợn, gà… Thậm chí trâu chăn thả trên nương cũng bị bắt trộm. Có hôm người bản lần theo dấu vết thấy trong rừng còn nguyên cả chiếc đầu trâu còn mới, bọn này hoành hành ngày một ngang nhiên, trắng trợn.
Phải sốc lại tinh thần cho mọi người trong bản không được đi theo bọn xấu này thôi - A Nhân nghĩ trong bụng nhưng chưa biết phải làm thế nào. Làm được điều đó rất khó, bởi chúng có tiền và cũng bởi dân bản còn nghèo khổ, thấy đi theo chúng kiếm được đồng tiền dễ dàng nên ham quá không kiểm soát được. Nhưng rồi cái gì xấu cũng không tồn tại được lâu, tự nó tàn sát nó đến man rợ. Cuộc thanh trừng ẩu đả của hai chủ bưởng diễn ra vào một đêm hè tối đen như mực, một loạt tiếng súng kíp chiu chíu xiên qua lá cây rừng, tiếng kêu la, chửi thề váng cả một góc rừng. Sáng sớm A Nhân nhận được tin cùng một vài thanh niên chạy vào bãi vàng xem sự thể. Trước mắt họ một cảnh tượng tang thương bao trùm, chủ bưởng bị sát hại bằng súng và dao, một vài tên bị thương máu me bê bết đang kêu la thảm thiết. Kẻ gây ra tội lỗi đã lột sạch số vàng mà bên đối phương đào đãi được lâu nay, tẩu tán cùng bọn đàn em bậu xậu. A Nhân không nỡ làm ngơ khi thấy người bị nạn cần cứu giúp, nhanh chóng cùng thanh niên trong bản băng bó đưa những người bị hại đi bệnh viện. Hai mạng người đổ gục không bao giờ tỉnh lại, được chính quyền xã lo khâm liệm tử tế. Lúc quay lại lán trại, A Nhân chợt nghe thấy tiếng quẫy đạp trong một chiếc thùng nhựa, chạy lại thì thấy một đứa bé mới chừng ba tháng tuổi đang ngọ nguậy. Một trong số những người bị thương là vợ của chủ bưởng đang hấp hối, thều thào nói với A Nhân:
- Tôi… Tôi chắc không sống nổi nữa rồi… vợ chồng tôi chỉ có nó… xin cậy nhờ anh và dân bản rủ lòng thương… nuôi… nuôi nó thành người tử tế...
- Quê chị ở đâu?
- Tôi không có họ hàng gì ở quê, xin anh cho nó làm người… của… bản. Nói rồi người đó tắt thở.
Giữ đúng lời trăn trối, A Nhân đem đứa bé về nuôi nấng cho đến tận bây giờ. Vừ A Nghiêm rất thông minh, từ nhỏ đã tỏ ra là một đứa bé lanh lợi và hoạt bát, đi học ở trường nội trú lúc nào cũng đạt điểm cao nhất lớp. Nhưng học hết cấp hai, mế Hảo bảo với pá Nhân:
- Nó cứ học mãi thế không bắt nổi vợ đâu va! Lớn như cây sào rồi để nó ở nhà đi nương tra lúa, tỉa bắp thôi chồng à.
- Nó thông minh lanh lợi lắm, các thầy cô bảo nên cho nó học lên cao, sau này sẽ giúp ích cho dân bản mình nhiều mà.
Nghiêm biết là mình cứ đi học mãi sẽ là gánh nặng cho pá mế, nhưng anh ham học, pá thì luôn luôn ủng hộ, nhất là khi Nghiêm mang được cái bằng khen học sinh giỏi cấp tỉnh về nhà, pá trang trọng treo lên giữa nhà cho bà con và các con em trong bản lấy đó làm gương mà học tập. Học xong cấp ba, có chú công an qua bản nắm tình hình buôn lậu qua biên giới, ở trọ lại nhà già Nhân mấy ngày, thấy Nghiêm học tốt, chú ấy liền bảo pá:
- Bác cho em Nghiêm đi học ngành công an đi, em ấy rất giỏi đấy!
- Được không vậy? Mà không biết nó có thích không. Lại còn cái khoản học phí để đi học tốn kém lắm va! Chỉ e…
- Bác đừng lo cái đó, sẽ có sự hỗ trợ của Nhà nước cho con em đồng bào miền núi.
Nghiêm nghe vậy nhảy cẫng lên:
- Ôi, thích quá pá ơi! Pá cho con đi học nhé.
- Được như vậy thì tốt quá, nhưng em nó còn bỡ ngỡ…
- Cháu sẽ giúp em ấy thực hiện ước mơ này.
Thế là Nghiêm khăn gói tạm biệt bản làng đi học tận thành phố, mỗi một mùa hè về Nghiêm học xong một năm học, ông Nhân thấy con rắn rỏi, trưởng thành lên rất nhiều. Ông vui lắm, bản Năng Cát của ông sẽ có một công dân xuất sắc, rồi những tệ nạn xấu xa sẽ bị đẩy lùi hết. Ông tin nhất định Nghiêm sẽ làm được điều đó.
Sau bốn năm miệt mài đèn sách, Nghiêm ra trường và xin về địa bàn huyện nhà làm việc. Thời gian này tình hình buôn lậu và hàng quốc cấm xảy ra liên miên, bản nơi Nghiêm ở là một bản biên giới, nên tình hình càng trở nên lộn xộn, nhiều thành phần xấu rủ rê con em trong bản cùng tham gia đường dây buôn bán vận chuyển hàng hóa, trong đó có cả heroin, ma túy tổng hợp, ma túy đá… Cũng bằng ấy số thanh niên và người dân trong bản sử dụng ma túy, nguy cơ thế hệ trẻ, lực lượng trong độ tuổi lao động đều mắc nghiện. Trong bản lúc nào cũng u ám những bóng người vật vờ, vạ vật nơi góc núi đầu rừng, nương rẫy bỏ hoang, cỏ dại mọc um tùm. Con trâu không muốn cày ruộng, con cá không muốn sinh sôi nảy nở, chim muông không muốn cất lên tiếng hót. Những người già ngồi bó gối bên bếp lửa, đôi mắt suy tư hồi tưởng về những ngày tươi đẹp đã qua trong tiếc nuối, bất lực. Già làng Nhân rất buồn, mỗi khi Nghiêm về thăm nhà là ông lại thủ thỉ nói ra những suy nghĩ của mình với con trai. Đây cũng là vấn đề mà trên huyện và bên phòng chống tội phạm đang tìm cách tháo gỡ. Trong thời kỳ triển khai vẫn phải giữ bí mật tuyệt đối nên Nghiêm không dám hé lộ điều gì với pá, ông Nhân thấy rất rối trong lòng. Có lẽ mình Nghiêm sẽ không làm thay đổi được tình hình hiện tại ở bản Năng Cát này, đột nhiên ông thấy buồn và cảm thấy hơi thất vọng vào một điều gì đó không rõ ràng, như người đi lạc trong mê cung vô hình không lối thoát. Một hôm, giữa lúc nửa đêm Nghiêm trở về nhà người sặc sụa mùi rượu, chân nam đá chân chiêu say mèm, miệng tuôn ra những lời chán chường, thật không giống Nghiêm một chút nào:
- Cuộc sống này thật là buồn tẻ, pá giúp tôi vui lên có được không?
- Mày làm sao thế hả Nghiêm. Ở trên huyện có chuyện gì à?
- Pá đừng nhắc trên đó với tôi nữa… Tôi bị ức chế lắm rồi… cứng nhắc, cứng nhắc vô đối, con người ta đôi lúc cũng bị mắc sai lầm nho nhỏ… thế mà họ, họ…
- Họ làm sao? Nói cho rõ xem nào? - Ông A Nhân nôn nóng hỏi dồn.
- Họ kỷ luật con.
- Con đã làm gì sai để đến nỗi bị kỷ luật hả?
- Con chỉ ham vui đi uống rượu với bạn… trong lúc đi làm nhiệm vụ. Nhưng con đã hứa sẽ không tái phạm mà họ…
- Phải có kỷ luật chứ, sai thì phải sửa sai con ạ. Không được bất mãn.
Lần đó Nghiêm ở nhà khá lâu, tìm gặp những thanh niên “lờ đờ” trong bản, mọi hành tung vô cùng khả nghi, có nhiều đêm vắng nhà, ông Nhân hỏi thì Nghiêm bảo:
- Con vẫn trong thời gian chịu kỷ luật, con chỉ đi chơi cho khuây khỏa, pá cứ yên tâm.
- Nhưng pá không yên tâm khi mày giao du với hạng người xấu đó.
- Con biết giữ mình mà pá.
- Nếu… nếu mày hư hỏng thì đừng về gặp pá nữa.
Những lời nói của pá, Nghiêm coi như chưa nghe thấy gì, hình như chẳng thứ gì đọng lại được vào trong đầu cậu. Bây giờ cậu còn lo đi đêm về hôm, lấm la lấm lét. Rồi một ngày chính mế Hảo nhìn thấy Nghiêm mang về một gói bọc cẩn thận và giấu dưới sàn nhà. Ông Nhân không giấu nổi sự tức giận nổi trận lôi đình.
- Cái thằng hư hỏng… phụ công tao với mế mày nuôi nấng, kỳ vọng… Giờ thì hỏng, hỏng thật rồi!
- Pá… Con không làm gì sai, con chỉ muốn kiếm thêm chút tiền để về phụ cho pá mế an hưởng tuổi già, sau này đỡ phải lên nương rẫy vất vả và còn lo cho các em con nữa.
- Khỏi! - Ông Nhân hét lên - Từ nay mày bước ra khỏi nhà này, tao không có đứa con hư hỏng “cõng rắn cắn gà nhà” như mày. Đi với đám du côn lêu lổng ấy mà về nhà gọi pá, gọi mế.
Nghiêm lầm lũi ra khỏi nhà. Mế chạy theo mếu máo:
- Con ơi! Nghiêm ơi, đừng đi theo chúng nó về với pá mế đi con.
Nghiêm quay lại ôm lấy đôi vai gầy guộc của mế. Giọng anh run lên:
- Mế về đi… Rồi một ngày… con sẽ về với mế.
Mế đưa cho Nghiêm nắm cơm và mấy bộ quần áo.
- Con cầm lấy… sau này nhớ về thăm nhà con nhé!
Nắm cơm trĩu nặng, thấm đẫm những giọt nước mắt của mế gói trong đó. Bỏng rát trên tay. Nghiêm gạt nước mắt bước lầm lũi dưới tán cây rừng đang vật vã giữa những ngày gió trở.
Trong hang đá trên núi, Nghiêm đang chụm đầu bàn bạc cùng một số người cách thức vận chuyển chuyến hàng lớn. Từ ngày bỏ bản lên rừng ở với tụi thằng Lủng, thằng Đẹn, chúng tôn sùng Nghiêm như một đại ca, bởi Nghiêm thông minh luôn đưa ra những ý kiến sáng suốt. Tên đầu chòm cũng ý thức được sự góp mặt của Nghiêm, bởi Nghiêm “quay đầu” vì sự ức chế tinh thần, bởi sự ruồng rẫy của gia đình, người thân. Vì vậy động cơ kiếm tiền của Nghiêm rất lớn, hơn bất cứ một thành viên nào khác. Không đơn thuần chỉ là kiếm tiền để thụ hưởng sung sướng cho bản thân không đâu, mà trong sự khát khao tìm kiếm ấy Nghiêm muốn tỏ ra lớn mạnh hơn tất cả. Đồng tiền phải được chế ngự tất cả, để ai đó phải thán phục ngưỡng mộ, bởi vậy mà chúng không ngần ngại giao cho Nghiêm những phi vụ quan trọng. Lần này cũng vậy, một phi vụ làm ăn lớn từ bên kia biên giới sắp được giao dịch mà Nghiêm chính là một đầu mối quan trọng trong vụ này. Mọi kế hoạch được lên kịch bản trước, Nghiêm dẫn đầu một tốp bốn người luồn rừng tới sát biên giới ém ở đó, đợi đúng ám hiệu thì giao nhận hàng. Toán người ăn mặc như dân bản địa, mắt thường khó có thể phân biệt đâu là bọn buôn lậu hay người dân đi làm nương. Địa điểm là lán trông ngô của bà con dưới một tán cây trám cụt ngọn, rũ cành lá xum xuê. Một toán người đi tới nói:
- Ngô đã thu hoạch rồi, có bán không?
- Chỉ có ngô răng ngựa thôi! Nhăm ngàn một cân.
- Bán kém không?
- Không.
Nhận đúng ám hiệu hai bên bắt đầu trao đổi hàng hóa. Những chiếc hộp bọc kỹ trong những bao u rê để ngụy trang được bên mua mở ra để kiểm tra hàng. Bỗng một tiếng hô đanh gọn vang lên: “Tất cả đứng im các anh đã bị bao vây”. Tất cả nhốn nháo quay đầu chạy toán loạn ra khỏi lán, một tiếng súng nổ chát chúa ngay ngọn cây: “Không được chạy, chúng tôi đã bao vây kín nơi này, ai chạy tôi bắn”. Tên đầu chòm hất tung túi tiền vào đám người trước mặt hòng tẩu thoát xuống chân đồi, nhanh như cắt Nghiêm tung chân ra một đòn cước pháp như trời giáng vào mặt làm hắn ngã nhào. Tuy vậy tên đó cố nhoài dậy rút khẩu súng ngắn nhằm phía lực lượng chức năng bóp cò. Tình thế cấp bách, không một giây chần chừ Nghiêm xô tới đè lên người hắn, một tiếng nổ giảm thanh “tạch” rất nhỏ và ngắn vang lên. Một bên cánh tay Nghiêm máu rỉ ra loang thẫm cả chiếc áo chàm, mấy chiến sĩ đồng loạt lao tới kịp thời khống chế được tên ngoan cố. Các đồng đội nhảy vào khóa tay những tên còn lại, thu về hơn năm mươi bánh heroin và nhiều viên ma túy tổng hợp đóng trong các thùng cát tông. Nghiêm nhanh chóng được băng bó vết thương, đồng chí Phó Giám đốc Công an tỉnh đồng thời là chỉ huy trận này, vô cùng xúc động nắm chặt bàn tay Nghiêm:
- Đồng chí cố gắng chịu đựng, ra đến xã sẽ có xe đưa đồng chí tới bệnh viện ngay. Cám ơn đồng chí rất bản lĩnh và nhạy bén giúp toàn đội ta phá một chuyên án lớn. Chiến công này có một phần rất lớn của đồng chí. Nghiêm tuy đau nhưng vẫn nở một nụ cười ngượng nghịu:
- Tôi phải cảm ơn các đồng chí trong đội đã kịp thời ứng phó, chứ một mình tôi…
Đồng chí Phó Giám đốc nở một nụ cười thật tươi:
- Tôi tuyên bố, từ giờ phút này án “kỷ luật” của đồng chí Nghiêm bị bãi bỏ.
- Rõ!
Những tên trong nhóm nhìn Nghiêm với ánh mắt kinh ngạc xen lẫn sợ sệt và thán phục, chúng không thể ngờ được đại ca Nghê (tên thường gọi ở bản), cùng ăn, cùng ngủ với chúng bấy lâu nay lại là một chiến sĩ công an gan dạ, kiên cường đến vậy. Để trà trộn vào đám người đó Nghiêm không ít lần suýt nguy hại đến tính mạng. Anh phải học cách làm sao giả vờ hít thuốc mà không phải là hít thật, phải làm cho chúng tin tưởng hoàn toàn. Anh phải tỏ ra rất bất mãn với công việc của mình ra sao, kể cả sự hiểu lầm của pá, mế và bà con trong thôn bản. Nhưng với lòng quyết tâm cao độ và tinh thần chiến đấu quả cảm, anh và đồng đội đã thu được kết quả như mong đợi.
Chiếc xe chở tội phạm và tang vật nhanh chóng được di lý về công an huyện, Nghiêm cũng được các đồng chí đưa tới bệnh viện huyện xử lý vết thương. Vết đạn trên cánh tay trái chạm xương nên các bác sĩ phải làm phẫu thuật gắp đầu đạn ra. Vừa từ phòng hậu phẫu ra còn chưa hết thuốc mê, chưa tỉnh hẳn nhưng anh đã nhìn rõ gương mặt của pá mế vừa ào đến. Pá nắm lấy tay con trai, nắm thật chặt như thể ông vừa tìm lại được một viên kim cương quý giá. Đôi mắt hoe đỏ không thốt lên lời. Qua cơn xúc động, ông cười nói nhưng giọng vẫn còn run run:
- Anh giỏi lắm! Anh lừa cả pá mế anh. Không biết là mấy lần pá đi tìm suýt đánh chết anh rồi! Vậy mà anh gan lì lắm, không chịu hé răng nửa lời.
- Pá! Con xin lỗi, vì nhiệm vụ đặc biệt nên con không thể…
Ông Nhân cười xòa:
- Được, được rồi! Con không sao là pá mế và bà con trong bản mừng lắm rồi, cố gắng tĩnh dưỡng vài ngày về mế giết gà tẩm bổ cho. Khổ quá, nửa năm trời ăn lông ở lỗ với bọn chúng trên rừng, bị gia đình và dân làng ghẻ lạnh, hắt hủi… Phải người có chí lắm mới làm nên được chuyện lớn như vậy, quả không phụ công pá, mế nuôi nấng con nên người.
- Công ơn này con khắc ghi suốt đời. Chiến công này có một phần không nhỏ của pá mế và người dân trong thôn bản đã nâng cao cảnh giác, giữ gìn bí mật để chúng con hoàn thành nhiệm vụ, xứng đáng là người công an nhân dân vì dân phục vụ, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để góp phần gìn giữ cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân như lời dạy của Bác Hồ mà con luôn luôn ghi nhớ.
Già làng Nhân nhìn thấy trong mắt con trai một tia sáng lấp lánh, một nguồn năng lượng dồi dào mang nhiệt huyết của tuổi trẻ, biết sống, học tập và chiến đấu quên mình để bảo vệ quê hương xanh mãi một màu xanh bình yên. Ánh nắng ban mai vừa thức nơi chân trời, tỏa ánh hào quang rực rỡ tới muôn phương. Ông tin rằng người trai trẻ ấy mãi là một công dân ưu tú của bản làng.
T.M.L