Gã thợ mộc làng Khuông (Truyện ngắn dự thi)
VŨ THẢO NGỌC
Gã thợ mộc làng Khuông
Truyện ngắn dự thi
Thụ chỉ biết ông tổ của Thụ là người làm nghề mộc có tiếng trên mạn núi Thiên Thai phiêu dạt về làng Thượng Khuông này từ lâu lắm rồi, ông đã mang nghề mộc về làng từ bấy đến nay.
Thời gian như cỗ xe cuốn đi mọi thứ, khi nghề mộc vất vả kiếm sống khó hơn, những nghề mới phù hợp hơn nên cánh thợ tự tản đi tứ tán, làng còn ít người làm mộc lắm. Cuối cùng còn mỗi gia đình Thụ trụ lại với nghề này. Thời trẻ, Thụ từng đi làm nghề mộc dạo khắp vùng, nên đi đâu người ta cũng biết anh là phó cối, gã thợ mộc làng Khuông. Hồi ấy, Thụ được gọi là “tay đóng cối”, hoặc “phó cối” hay gã thợ mộc làng Khuông. Vốn dĩ chịu khó, Thụ cần mẫn trên vai gánh đôi khoanh thớt của cái cối xay lúa và bộ đồ đục, tràng đi bộ len lỏi khắp các làng quê với tiếng rao “Ai đóng cối ơ!”. Cái thời người dân vẫn phải gọi thợ đến nhà đóng cối là đóng mới hay sửa chữa cái cối xay lúa, giờ đã thành chuyện cổ tích rồi vì có cái máy xay xát tiện lợi nên cối xay lúa, cối giã gạo cũng đã biến mất lâu rồi.
Lại nói về nghề mộc của làng Khuông, đã từng có một thời rất rực rỡ. Từ kinh thành Thăng Long người ta còn tìm về Khuông để đặt thợ làng đóng đồ, đó là những nhà giàu cho đến nhà quan tìm về Khuông đặt những đồ gỗ “kỹ” như sập gụ, tủ chè, là các bức hoành phi, đối, liễn, đến các tượng thần linh, nhân thần được đẽo gọt cẩn thận và sơn son thiếp vàng để đặt trang trọng trong các chốn cung đình, chùa chiền, cung, phủ…
Rồi chiến tranh liên miên, đói kém kéo tới, khiến người ta chả còn ai có tâm trí thanh thản mà ngồi hưởng thụ những đồ gỗ quý được anh thợ mộc tài hoa làng Khuông bào đẽo tinh xảo nữa. Làng buồn hẳn vì vắng tiếng cưa, tiếng đục chạm vào gỗ. Vắng tiếng chân người tìm đến làng mua hàng hoặc đặt hàng nữa. Cho đến thời Thụ lớn lên chỉ cần biết “đóng cối” hay đóng vài ba cái giường, tủ, bàn ghế lặt vặt thì cũng có thể kiếm được đủ ba bữa ăn trong ngày, chứ không dám mơ làm giàu từ nghề nhọc nhằn ấy.
Đấy là ông Thụ rỉ rả kể với Đại khi cậu về nhận việc ở xưởng của ông, ông bảo, nếu thời đại có những thứ thay thế hẳn các sản phẩm gỗ thì ông sẽ bỏ nghề. Nhưng mà đỗ gỗ dù sang, dù hèn vẫn tồn tại, nên ông không bỏ được. Là đóng cái giường cho nhà nọ chuẩn bị cưới xin, đóng cái chạn bát, cái tủ quần áo, cái ban thờ nhỏ đến cái ban thờ to, nhiều việc của nghề mộc vẫn tồn tại bình dị giữa làng quê.
Thực ra, có lúc ông Thụ cũng đã tính bỏ nghề theo bạn bè cùng thời xin đi công nhân ngoài tỉnh cho biết đây, biết đó. Nhưng rồi nghề mộc cứ níu chân ông ở lại làng. Giờ thì mỗi ngày cái xưởng mộc lại đông khách hơn. Người ta có của ăn của để là tơi tới đến đặt hàng. Đủ thứ hàng “kỹ”. Đủ thứ đòi hỏi từ đôi bàn tay và khối óc tài hoa của ông. Mỗi món đồ làm xong, trong lòng ông lại thấy nhẹ bẫng như là trả được món nợ. Ông cũng không hiểu sao lại thế. Cứ thấy trong tim mình như có sự ủy thác thôi thúc của cụ tổ nhà ông, hãy làm đi, đừng bỏ nghề. Mang mang bên tai ông là chuyện của cụ tổ với những món hàng bằng gỗ sưa đỏ mà cụ tổ đã làm nên nghiệp lớn từ làng Khuông nghèo khó này…
Năm tháng vụt trôi, trào lưu đồ gỗ bình dân không có nhiều người tiêu thụ thì đồ gỗ sang trọng, đắt giá, cầu kỳ của nghề mộc lên ngôi nhanh chóng. Ông Thụ bảo, khi đơn hàng “kỹ” đặt liên tiếp là ông cũng hoảng, chỉ lo không đáp ứng được nhu cầu của khách thì mình sẽ đánh mất danh nghề tổ của mình đã giữ bao đời rồi. Thế là ông lanh trí kết nối với đám bạn làng nghề bên làng Khuông Hạ để cùng hỗ trợ nhau. Giờ thì cả dãy đồ gỗ đắt tiền chạy dọc làng Khuông Thượng, khách khắp nơi đến mua bán quanh năm. Làng Khuông Thượng, làng Khuông Hạ đều trở thành làng nghề mộc nổi tiếng ở vùng Đường Hào bên sông Cửu An bình lặng.
Đại từng là thợ sửa chữa điện ở xí nghiệp kinh doanh điện nước trên thị xã, phần lương lậu bấp bênh, phần vừa đi vừa về trong ngày mấy chục cây số cũng vất vả, nên Đại xin nghỉ việc trên thị xã. Cậu sớm hiểu cảnh nhà một mẹ một con, mẹ Đại sinh Đại ra được chín tháng thì bố Đại mắc bệnh hiểm nghèo mất luôn, nên Đại không biết mặt bố. Hoàn cảnh thế nên Đại khôn sớm hơn tuổi, biết thương mẹ vất vả lại yếu sức, nên cậu tính về Khuông xin làm cho ông Thụ để tiện hàng ngày chăm sóc mẹ. Ông Thụ được cái xởi lởi nghe thấy Đại trình bày thế thì nhận luôn. Ông Thụ có hình dáng chả khác cái đục - một dụng cụ không thể thiếu của nghề mộc. Ông Thụ xởi lởi, nói to, cười to, nếu gặp ông Thụ lần đầu sẽ nghĩ ông nói to, cười to thế chắc là tạng người vô lo, vô nghĩ. Nhưng Đại ở với ông Thụ lâu thì Đại biết, ông chẳng phải loại đó. Người có vẻ thô ráp thế thôi nhưng cũng thâm nho ra trò. Đại cũng giống như ông, mồ côi cha từ lúc ẵm ngửa, chẳng biết mặt cha nên ông Thụ quý Đại ngay từ lúc ban đầu. Ông Thụ kể với Đại, tao khác gì chú mày cũng bồ côi, bồ cút từ bé, ở với bà nội là chính. Bà nội khi ấy váy đụp, mắt toét, nghèo khổ, bà nuôi tao vì bố mẹ tao tử nạn trong trận càn mùa đông năm bốn sáu, bốn bảy rồi. Bà nội mớm cho tao từng mớm khoai, ngô, đến ổi xanh, khoai sượng… Tao lớn lên như thế đó. Mày bảo sao cứ tròn như cái đục chứ gì. Thì tao được bà nội cho ăn tất cả những gì có thể, vì bà vơ được cái gì bà đem về nấu nấu, nướng nướng nhét mồm tao cho tao đỡ khóc, đỡ đòi sữa mẹ, thế thôi, rồi đến lúc tao lớn tròn như cái đục, cái tràng thế đó.
Ngưng kể thì ông Thụ cất tiếng cười váng nhà. Đại chỉ biết cười theo. Rồi Đại tủm tỉm hỏi: “Thế lớn lên ai bày cho anh lấy vợ, lại còn biết mở cửa hàng mộc này, khi mà cả làng mới có nghề mộc rong”. Hà hà, Thụ cười to rồi kể: “Chuyện nghề thì mày ít biết rồi, còn chuyện lấy vợ dễ ợt, bao giờ mày muốn lấy vợ tao mách cho”. “Gớm, bố cứ ti toe” - Đại đùa. Ông Thụ bật lên: “Ơ hay, thế mày cũng đã đến lúc lấy vợ được rồi, mày còn ảnh ôi cái gì hở?”. “Thì… em vẫn còn nghèo, lấy vợ mà không nuôi nổi nó, nó chả mắng cho”. “Ờ, mày nói có lý nhỉ”. Thụ lại cười ha hả rồi kể tiếp: Ngày ấy, cái Nhài ở cạnh nhà bà nội tao, nhà đấy tận bảy đứa con gái, mẹ nó đẻ mãi mới tòi ra hai thằng nữa. Nhà nó nghèo như nhà bà nội tao thôi. Bà nội tao sang nhà cái Nhài nói với bố mẹ nó, rằng nhà anh chị có tận chín đứa con, những bảy đứa con gái, nhà bà chỉ có mỗi cu Thụ… thế… thế khi nào… khi nào… có đứa nào gần gả được chồng thì cho tôi dấm một đứa nhé. Tôi không có gì cho thằng Thụ đâu, nhưng cũng có cái nhà nhỏ, có vườn cây sưa cổ trên đất hương hỏa, nếu được giá bán đi cũng làm cho vợ chồng nó được cái nhà cứng cáp, còn có cái ao to nữa, vợ chồng chúng nó chịu khó rồi ra sẽ tốt đẹp, anh chị nhé. Thế rồi tao qua mười ba, mười bốn tuổi gì đó, một hôm bố mẹ cái Nhài dắt nó sang nhà bà nội và bà gọi tao vào, cả nhà ngồi bệt ở sàn nhà đất nện nhà bà nội. Bố mẹ cái Nhài bảo bà nội tao:
- Bà ơi, như chúng cháu đã nhận lời với bà, năm nay con Nhài cũng đã qua mười bốn hay sắp đến mười bốn, thì cứ cho là mười lăm cả tuổi mụ bà nhỉ, chúng cháu cho bà để nó làm bạn với anh cu Thụ nhà bà đây ạ.
Bà nội tao nheo nheo đôi mắt toét nhoèn ngắm cái Nhài rồi cất lời:
- Ừ, thì tôi đã nói với anh chị rồi, bên ấy một đàn bảy đứa, bên này nhõn cu Thụ, được thế thì còn gì bằng, cảm ơn anh chị đã nể tình bà cháu bồ côi, bồ cút mà cho con Nhài về bên này với cu Thụ.
Nói rồi bà gọi tao còn đang nghịch rình con chim sẻ ở vườn sưa sau nhà, nghe tiếng bà tao vội chạy vào thì bà bảo:
- Ơ, cu ơi, Thụ ơi, về đây bà bảo, thế từ nay cu với cái Nhài là vợ chồng đấy, chịu khó mà bảo ban nhau làm ăn nhé. Bà già thì bà cũng chết. Chúng mày phải thương yêu nhau đấy. Không được phụ công bố mẹ đẻ ra chúng mày.
Bà nói thế, bố mẹ cái Nhài cũng nói thêm qua lại đãi bôi vài câu nữa. Từ hôm đó, cái Nhài ở lại nhà tao, và cứ thế thành vợ chồng đến tận bây giờ.
- Ôi! Đại thốt lên, anh kể chuyện như là… bịa ấy.
- Cái thằng, bịa sao được. Không tin mày hỏi chị Nhài mày ấy. Tao nói điêu tao bỏ nghề mộc này nhá.
Cả hai anh em cùng cười không ngớt. Rồi ông Thụ lại thêm một câu:
- Bà nội tao sau hôm ấy bảo với tao, may quá, nhà ấy nó bằng lòng cho con Nhài về với cháu, chứ không lớn lên tí nữa, bọn con gái làng này cháu không biết đâu, nó chê nghề mộc lắm, nó bảo lấy ai thì lấy chứ không lấy thằng phó cối. Ngày xưa ông tổ cũng vì thế mà không lấy được cô cả nhà ông chưởng bạ đấy cháu ạ.
- Ơ, thế là sao hả anh? - Đại bật hỏi.
- Thôi, chuyện dài lắm, rồi mày làm lâu dài với anh mày sẽ biết thôi.
Nhưng chuyện đó là hồi Đại mới đến nhận chân thợ điện cho xưởng mộc của ông Thụ, khi đó ông Thụ đã ngoài sáu mươi tuổi rồi. Đồ mộc của ông Thụ đã nổi đình đám khắp vùng. Vợ chồng ông Thụ sinh được bốn đứa con, hai trai, hai gái, nhưng hai thằng con trai lại đam mê việc khác, không thích nghề mộc nên là chỉ có hai đứa con gái phụ trợ với bố mẹ, rồi thì hai thằng rể học nghề của bố vợ lại phất lên nhờ nghề mộc. Một trong hai thằng rể là Đại.
Đại vốn tính khôn lanh và tháo vát, dù không được học hành bài bản đến nơi đến chốn, nhờ cái tính láu lỉnh, thông minh nên Đại nhanh nhẹn lấy lòng được ông chủ từ khi bước vào làm cho xưởng mộc của ông Thụ. Cái Hoa là con gái út của vợ chồng ông Thụ kém Đại đúng một giáp. Ban đầu Đại còn anh em với ông Thụ, sau thì thấy cái Hoa đã nây nẩy thiếu nữ, Đại bèn nghĩ… sẽ chờ cái Hoa, dù Đại biết cậu già hơn cả chục tuổi, chắc gì nó đã ưng lấy mình, nhưng kệ, Đại cứ âm thầm chờ cái Hoa. Rồi vì Đại ăn ở gắn bó với gia đình ông Thụ như người trong nhà nên cái Hoa đã quen hơi bén tiếng với Đại. Lớn lên chút, được chú Đại chăm chút khi thì đưa đi học, lúc đón về, là những lúc vợ chồng ông Thụ nhỡ nhàng đón con. Thế nên hai “chú cháu” Đại và cái Hoa cứ ríu rít thân thiện với nhau.
Bẵng đi thì cái Hoa và Đại thành thân. Ông bà Thụ cũng mừng ra mặt, tính ông Thụ thì ai cũng biết, ông quảng đại, xuề xòa, dù ông được gọi là đại gia làng rồi. Con gái út thành thân với anh thợ thân thiết của gia đình thì còn gì hơn. Nhưng làng xóm thì bảo, cái thằng Đại khôn lanh đã biết tìm chỗ “chó chui gầm chạn”.
Đại nhớ ngày bé, mẹ Đại vẫn bảo, số con sinh ra không làm vua thì có số giàu sang, mà hồi bé tí, nghe mẹ nói thế thì nghĩ cho vui, ai biết đâu, có ngày Đại thành đại gia thật. Nhờ trí thông minh, nhanh nhẹn, biết học mót được nghề thợ mộc của ông chủ, biết học bạn nghề mà buôn bán giỏi, rồi thành con rể ông chủ, Đại nhanh chóng biến xưởng mộc thành xưởng buôn bán gỗ. Từ mối quan hệ buôn bán, Đại đã khai thác các mối hàng, nào mối hàng đóng đồ sẵn, mối gỗ tạp đến các loại gỗ quý được Đại thu mua hết. Các xưởng mộc đóng đồ ở khu vực đều phải đến xưởng nhà Đại mới có gỗ đúng ý khách đặt hàng.
Từ cơ ngơi của bố vợ, Đại tách ra làm xưởng riêng, gọi là Công ty đồ gỗ mỹ nghệ Hoa Đại. Công ty Hoa Đại có diện tích rộng như một khu công nghiệp, diện tích công ty chiếm hơn nửa cánh đồng làng An Biên bên bờ sông Cửu An giữa vùng đồng bằng quanh năm chỉ có lúa ngô. Vùng này từ khi có công ty Hoa Đại thì cánh đồng làng An Biên tấp nập hẳn, công nhân đi làm cho Hoa Đại nườm nượp. Cánh thợ trẻ người ở địa phương, người từ nhiều nơi khác xin vào làm cho Hoa Đại. Tính thiệt hơn thì ở đâu cũng làm thuê, nhưng làm thuê ngay đầu làng vẫn sướng hơn. Sáng đi trưa về, chiều đi tối về, vẫn cơm nước, nhà cửa ngon lành, đỡ phải bắt máy bay, tàu hỏa tận đẩu đâu tìm việc làm gì cho vất vả. Dân làng An Biên cũng như các khu vực lân cận đều tính toán thế nên công ty nhà Hoa Đại mỗi ngày càng đông công nhân hơn. Nhân công thuê rẻ, hàng hóa thu mua giá hời, Đại phát triển thêm các sản phẩm đồ gỗ đủ loại.
Công việc cứ thế tiến triển, Đại mừng đã làm được việc là tạo công ăn việc làm cho bà con trong làng, ngoài huyện, ngoài tỉnh. Đại nhớ thời của Đại chỉ cách nay trên dưới hai mươi năm thôi thế hệ của Đại đua nhau kéo nhau ra khỏi làng hết, đứa nào cũng mong có hai từ “thoát ly” khỏi làng để kiếm việc làm. Còn bây giờ, các em, các cháu, thậm chí cả mấy chị hơn sáu mươi tuổi vẫn có việc làm ở công ty Hoa Đại. Dân làng vẫn nói, cảm ơn anh cu Đại mà làng ta mở mày mở mặt, không phải nghèo đói như xưa giữa cánh đồng mênh mông mà vẫn đói.
Công việc thuận buồm, xuôi gió nên Đại có thêm những ý tưởng mới. Khi nhà nước chuyển đổi cơ cấu, Đại nhanh chóng thuê lại những mẫu đất của những hộ nông dân không sử dụng hết quy hoạch lại, tạo cảnh quan mở rộng khuôn viên công ty. Vành đai công ty Hoa Đại được bao quanh là rừng cây xanh tốt, tạo nên lá phổi thiên nhiên giá trị cho cả vùng, khi mà nhiều khu công nghiệp nhỏ áp sát các làng quê, sự ô nhiễm môi trường đang mỗi ngày một nhiều lên thì hàng cây công ty Đại là một giá trị môi trường không thể đong đếm. Dọc trục đường liên huyện các khu công nghiệp nối tiếp, ít thấy có cây xanh, hồ sinh thái, thì Đại là doanh nghiệp đầu tiên ở tỉnh đã chú trọng đến môi trường nhà máy ở vùng nông thôn. Công ty Hoa Đại trở thành điển hình trong nhiều hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong tỉnh, trong đó có việc góp phần bảo vệ môi trường sinh thái tại khu vực đơn vị hoạt động.
Đại không phải loại người hay phô trương, nhưng dân An Biên thì nắc nỏm khen anh cu Đại rõ biết tính toán. Công ty đẹp như công viên ở trên thủ đô ấy. Công ty có xe đưa đón các công nhân ở ngoài bán kính mười ki lô mét. Hàng hóa sản xuất theo các đơn hàng vẫn giữ nhịp độ tốt hơn mỗi ngày.
Có lúc thảnh thơi, Đại ra ngồi bên góc vườn sinh thái của công ty ngắm cái cơ ngơi của gia đình anh lòng thư thái lạ, Đại bật cười vì câu thơ của ông nhà thơ bạn với bố vợ khi Đại đang hẹn hò với Hoa. Ông nhà thơ tên Lê Thức hay sang uống trà với ông Thụ cứ ngân nga câu thơ của ông “Vườn sưa đỏ oanh vàng chưa kịp hót. Anh lấy nàng liệu cơm cháo gì không?”. Ông Lê Thức cười sảng khoái trêu Đại, rồi ông bảo: “Hơ hơ, câu thơ ta tặng anh cu Đại là ta nói cái anh cu đã công cán gì đâu, nên nói… oanh vàng chưa kịp hót là nói cái Hoa đó. May mà nó lại biết anh là… gỗ sưa đỏ nên nó đồng ý lấy anh nên ông Thụ bạn tôi có anh con rể tài ba là thế”. Nói rồi hai ông cười sảng khoái vang cả góc vườn sưa bên nhà ông Thụ.
Đại cứ ngẫm nghĩ không cắt nghĩa được, cứ như trời đất, tổ tiên trao cho anh cơ nghiệp này. Nghĩ đến vườn sưa đỏ của bố vợ. Đại nảy ra ý nghĩ, sao không tiếp tục gây dựng một vườn cây sưa đỏ như ngày xưa bố vợ từng có từ thời bà nội ông Thụ đã giữ gìn để mong bán đi làm nhà khi cháu nội lấy vợ. Nghĩ sao làm vậy, Đại bèn huy động các nguồn lực để khoanh vùng trồng giống cây có giá trị này. Đại chỉ nghĩ trồng được vườn sưa đỏ tặng ông bà nhạc hẳn ông bà sẽ mừng hơn mọi món quà khác. Đúng như Đại nghĩ, mỗi mùa xuân vườn sưa được nhân giống từ những quả sưa rụng đầy vườn. Ngoảnh đi ngoảnh lại thì vườn sưa của Đại như một rừng cây xanh thẫm giữa vùng đồng bằng châu thổ. Người nơi khác đến đều ngỡ ngàng nhìn vườn sưa như cánh rừng xanh tít trên vùng núi cao.
Rừng sưa đỏ nhà Đại đã vươn cành tỏa bóng mát, sẽ cho thu hoạch gỗ với khối lượng gỗ có giá trị rất lớn. Nhưng Đại chỉ nghĩ đó là món quà dành tặng bố mẹ vợ, và vui hơn là vườn sưa đỏ mỗi ngày có những đàn chim kéo nhau ở khắp nơi tụ về. Mỗi khi có dịp rảnh rỗi Đại lại tha thẩn giữa vườn sưa đỏ đầy tiếng chim ríu rít. Đại thấy mình thật hạnh phúc. Nhất là thằng con trai lớn của Đại năm nay vào lớp mười hai, cu cậu cũng ham đọc sách, ham ngoại ngữ. Nó bảo Đại, con sẽ học tiếng Anh giỏi để làm quản lý cho bố mẹ, đưa sản phẩm gỗ của quê ta ra thế giới. Con nhớ chuyện ông ngoại kể về cụ tổ làng với đồ gỗ bằng sưa đỏ rồi bố mẹ nhé.
Cả Đại và Hoa đều hết sức ngạc nhiên vì câu trả lời của cậu con trai. Hóa ra cu Thắng đã trưởng thành hơn bố mẹ nó nhiều. Hóa ra ông ngoại đã kể chuyện cho nó về cụ tổ làng Khuông Thượng với nghề mộc nổi tiếng rồi. Trong lòng Đại mừng thầm từ hôm nghe cu Thắng nói thế.
Lại thêm hôm trước ông nhà thơ Lê Thức sang chơi, ông lại véo von với bố Thụ và đọc lại câu thơ “vườn sưa đỏ oanh vàng chưa kịp hót” ấy và ông còn nói thêm với Đại một điều không chỉ ông tâm đắc mà nhiều bô lão ở An Biên, rộng hơn cả vùng tả ngạn sông Cửu An tâm đắc với ông. Xưa cả vùng Cửu An tự hào có ngài tướng quân họ Phạm thời nhà Trần, ngày nay cháu cũng dòng dõi họ Phạm bên dòng Cửu An này thì tự hào lắm, nên các cụ bô lão tôn vinh cháu gọi cháu anh hùng là thế. Đại ngớ người. Ôi, những việc anh làm không phải để ghi danh bia đá. Các cụ cứ yêu quý mà tôn vinh anh thôi. Nghe thế, Đại trả lời ông nhà thơ Lê Thức:
- Ông ơi, cháu làm vì cháu thấy có thể làm được, quê ta cũng nhiều người giỏi, người tài khắp đất nước ấy ông ạ. Nhưng họ ở xa làng quê ta, cháu thì ngày nào chả ở đây, con đường làng cháu vẫn đi hàng ngày, rằm lễ nào cháu chẳng ra chùa lễ Phật ạ, công to việc lớn gì cháu chẳng có mặt ở nhà văn hóa thôn… nên là cháu…
- Không, anh cứ nói thế, những việc anh làm giời biết, đất biết cả mà. Anh cứ khiêm tốn quá. Nhưng ông cũng nói thật. Ở đời vốn dĩ hay có sự ghen ăn tức ở lắm cháu nhé. Làm lớn thì lo lớn, làm nhỏ cũng lo nhỏ. Việc của cháu ta chả tham gia được đâu, nhưng chỉ nhắc cháu cần thấu đáo, kỹ càng nhé. Nhưng ông mừng, mừng lắm thằng cháu ạ… hơ hơ hơ “vườn sưa đỏ oanh vàng chưa kịp hót”…
Nói thế rồi ông ra về. Lòng Đại có chút xôn xao, ông nhắc Đại không thừa, mọi việc cần thấu đáo… nhưng nhìn vườn sưa xanh lá rung ring kia, như lấp đi cái nỗi lo thoáng qua của Đại.
Hôm sau, nhân lúc ông Thụ sang nhà, Đại thưa với bố vợ:
- Bố ạ, thực tình vợ chồng con có được sản nghiệp thế này công đầu phải là bố mẹ ạ. Con… con nghĩ mãi không biết dâng tặng bố mẹ món quà gì cho xứng đáng ạ.
- Anh chỉ vẽ. Đang yên đang lành lại nghĩ ra trò vè tặng quà với hoa làm gì.
- Thì con cứ thấy mình mắc nợ không trả hết ơn sinh thành dưỡng dục của bố mẹ nên cứ tẩn ngẩn nghĩ ngợi ạ.
- Ôi, trời, anh rõ là đa tư, sao phải rườm rà làm gì. Chúng tôi nhìn thấy vợ chồng con cái anh phương trưởng như thế này là món quà lớn nhất đời tôi rồi. Nếu ngày xưa thì ngữ tôi, ngữ anh chỉ được gọi là gã thợ mộc làng Kênh, hay gọi là gã phó cối thôi đấy. Giờ nhìn anh cầm càng mọi việc tiến lên thế này bố là người mừng nhất rồi con giai ạ.
- Ôi bố cứ quá khen…
- Thì đó, mấy chục héc ta cây sưa đỏ như rừng giữa đồng bằng thế kia, đó là món quà lớn nhất của tôi và bà ấy rồi, anh không nói tôi cũng nhận ra thâm ý của anh rồi. Anh có biết cây sưa đỏ có ý nghĩa với tôi như thế nào không, anh mới chỉ biết tôi kể chuyện bà nội tôi lấy vườn sưa ra làm bằng để xin cô Nhài về cho tôi thôi. Chứ anh chưa biết câu chuyện gỗ sưa đỏ và cụ tổ đâu. Chuyện này tôi hay kể cho bọn trẻ con nghe, khi bé cu Thắng nhà anh thích thú nhất, hay bắt ông ngoại kể đi kể lại. Là chuyện về cây sưa đỏ, là cụ tổ nhà ta ấy. Ngày đó, cụ tổ nhà ta trôi dạt về vùng này, vì cụ có trí hơn người, tài hơn người, là anh thợ mộc tài hoa có tiếng cả vùng huyện Đường Hào nên cô cả con nhà chưởng lý để ý đến. Tất nhiên nhà chưởng lý không đồng ý cho cụ thành thân với cô cả nhà ấy vì không môn đăng hậu đối. Nhưng bằng mọi cách cô cả đã thuyết phục được ông bố chưởng lý quyền uy ngất trời đó đồng ý. Nhưng ông chưởng lý đặt ra yêu cầu. Nếu lấy được cô cả thì anh thợ mộc tài ba khéo léo nổi tiếng khắp vùng Đường Hào phải sắm được giường cưới là gỗ sưa đỏ. Cô cả và anh thợ mộc không tìm đâu ra thứ gỗ sưa đỏ. Chỉ nghe đồn đó là loại gỗ có mùi hương chỉ dành cho những nơi quyền quý, loại sưa đỏ một mùi hương đặc biệt, có một phép màu linh diệu. Người xưa săn tìm gỗ sưa đỏ để sở hữu như một vật phẩm mang đến vượng khí muôn đời. Loại gỗ này không thể có ở nơi thô lỗ, tục tằn. Nghe nói nhà giàu nọ đi cướp được cái sập gỗ sưa đỏ của một nhà quan thất thế, tay nhà giàu hí hửng mang về nằm và làm bậy trên cái sập quý đó đã bị chết tắc tử mà không ai giải thích được vì sao. Người xưa còn nói, nếu được nằm trên chiếc giường gỗ sưa đỏ ắt sẽ sinh được bậc vương giả, không thì cũng sinh ra những bậc túc nho lừng danh hậu thế…
Anh thợ mộc tài hoa dù đã làm đủ thứ gỗ rồi nhưng gỗ sưa đỏ thì chưa được làm bao giờ, và chỉ nghe chuyện về loại gỗ sưa đỏ quý giá mà thôi. Hai người khi ấy quá thương nhau, không còn cách nào khác bèn bàn cách trốn đi và tìm về khu rừng bên núi Thiên Thai quê bố của chàng thợ mộc mong có người giúp đỡ. Nghe nói hai người đi rất lâu mới tới khu rừng Thiên Thai. Khi họ tìm được cây sưa đỏ ra khỏi rừng là lúc cô cả mang thai. Sợ về làng cha sẽ đánh mắng. Hai người bèn dừng lại nơi cửa rừng Thiên Thai tìm cách an cư. Họ đã làm rất nhiều món đồ gỗ từ những cây sưa đỏ của rừng già đem bán và kiếm sống. Cô cả lại sinh được một quý tử khôi ngô, tuấn tú. Đang yên ổn ở cửa rừng Thiên Thai thì ngày nọ, có một toán người đến triệu hai người về Đường Hào. Vợ chồng cô cả không hiểu tại sao họ lại đến bắt gia đình cô đi. Vợ chồng cô cả không thể chống cự, bắt buộc phải đi theo họ cả mấy thôi đường thì ngạc nhiên quá, về đúng cửa nhà ông chưởng bạ ở làng An Biên. Vợ chồng cô vừa khóc vừa quỳ lạy song thân. Ông bà chưởng bạ đã già lắm. Họ không trách mắng cô cả và anh thợ mộc. Ông chưởng bạ chỉ nói:
- Ta sai rồi, ta đã làm cho các con vì thương yêu nhau mà khổ. Giờ ta già rồi, ta không thể làm gì được nữa, ta trao quyền cho vợ chồng con cai quản gia sản của ta.
Cô cả khóc nức lên. Anh thợ mộc chỉ biết cúi lạy ông bà nhạc phụ, nhạc mẫu. Sau cô cả ngẩng lên hỏi cha:
- Cha ơi chúng con biết lỗi rồi, nhưng sao cha lại tìm ra chúng con?
- Khó gì ta không tìm ra chứ, con cứ hỏi chồng con ấy.
- Ôi, sao lại hỏi chồng con?
Anh thợ mộc cúi lạy nhạc phụ, nhạc mẫu rồi rành rọt đáp:
- Dạ thưa nhạc phụ, con kính lạy người và cảm ơn sự tinh tường của người để chúng con được về đoàn tụ ạ, là những món đồ gỗ sưa đỏ thơm lừng được bày bán khắp vùng Đường Hào ta có phải không ạ.
- Phải. Chàng rể của ta thật thông minh. Ta không trách các ngươi nữa. Từ giờ gia sản này các con phải phát triển cho nó sinh sôi nảy nở, như thế là ta yên lòng về cõi già rồi.
- Dạ, kính lạy nhạc phụ, nhạc mẫu, chúng con ngàn vạn lỗi lầm, mong được nhạc phụ, nhạc mẫu tha thứ và chấp nhận chúng con ạ.
Ông Thụ kể xong câu chuyện huyền bí thì quay ra nói với Đại:
- Chuyện cụ tổ nhà ta trở thành Thành hoàng làng Khuông Thượng là thế đó con ạ. Cái chuyện bà nội ta nói có vườn sưa cổ làm bằng để xin bố mẹ cô Nhài cho ta ngày ấy là căn nguyên đó con ạ. Chắc con vẫn đến đình làng dâng hương, nhưng sẽ không thể biết cặn kẽ câu chuyện kỳ bí ấy. Bố không như cụ tổ trong câu chuyện dân gian kia, nhưng bố vui vì bố đã trao truyền cho con, một đứa con rể mà hơn cả con trai bố biết xoay chuyển mọi điều để các con có được cơ ngơi như ngày hôm nay. Mừng nhất là rừng gỗ sưa đỏ ngoài kia. Thế là món quà lớn nhất con không dành cho mỗi bố mẹ đâu, mà là món quà dâng lên các đấng bề trên nhà ta mới là điều vô giá. Bố mừng lắm. Như thể con đã được ủy thác của đấng bề trên, đã làm nên sự nghiệp từ nghề mộc mà đấng bề trên đã phò trợ cho con...
Nghe xong câu chuyện huyền thoại, nghe bố vợ nói thế, lòng Đại như nở hoa. Anh bèn đáp:
- Dạ vâng ạ, thế tức là… con được làm một việc mà như các bậc bề trên đã ủy thác mà con không biết. Con cảm ơn bố mẹ nhiều lắm ạ. Con là rể mà như con giai trong nhà ta rồi bố nhỉ.
- Đúng thế con ạ, còn con đã hơn cả con giai ta ấy chứ. Con là giai của làng Khuông ta, là dòng dõi của ông tổ rồi, nên dù là anh giám đốc hôm nay thì vẫn là anh thợ mộc tài hoa của làng Khuông ta. Bố vui lắm con ạ. Ai biết đâu cơ duyên đưa bố con ta gặp nhau khi con còn trập trùng khó khăn giữa cuộc đời tuổi trẻ như chính thời trai trẻ của bố. Cứ như thể các đấng bề trên đã giao cho bố và anh hoàn thành tâm nguyện của người là phải có rừng gỗ sưa đỏ ở An Biên ấy.
- Ôi, lạ thật bố nhỉ. Con cũng… lan man nghĩ thế ạ.
Hai cha con cùng cười. Họ đi bên nhau trên con đường thẳng tắp giữa những hàng cây sưa đỏ xanh tít. Những cây sưa đã hơn mười tuổi trồng, có vóc dáng của thứ gỗ có thân thẳng tắp, những vỏ cây ram rám như những cánh con chuồn chuồn già. Lay phay những bông hoa sưa rơi đầy dưới gốc, tạo nên một thảm hoa màu phơn phớt trắng thật kiêu sa trên nền cỏ xanh. Những bông hoa nhỏ xíu như những chiếc cúc áo nhỏ xinh màu trắng ngà lấp lánh trên chiếc váy hoa xanh đẹp lộng lẫy của nàng công chúa trong chuyện thần thoại nào đấy. Lòng Đại vui vô bờ bến. Đại nhìn gương mặt bố Thụ đầy hào hứng như nhân lên niềm vui của anh, niềm vui của người làm nghề mộc, cái nghề từ xa xưa mấy ai coi trọng, ai đó nghe đến nghề mộc thì chỉ nghĩ đó là một nghề… thấp kém.
Họ lại say sưa về những dự định mới, giữa rừng sưa đỏ đầy tiếng chim ríu rít. Họ cùng đi và Đại bất chợt reo lên:
- Ôi bố ơi ta vào đình làng dâng nén hương lên Thành hoàng làng đi bố.
- Ừ nhỉ, mải chuyện mà bố con ta lại qua đình làng dâng hương cho cụ. Chắc lúc nãy bố kể chuyện về cụ cho con nghe nên cụ gọi bố con ta vào đấy.
- Năm nay hội làng con sẽ dâng khúc sưa đỏ già nhất vườn bố nhỉ.
- Ừ, thế thì còn gì bằng.
Hai bố con Đại cùng hân hoan bước vào đình làng. Mùi hương thơm lan tỏa khắp khu đình trong một chiều nắng vừa tắt. Những cái đao đình xoắn hình chim hạc, rồng, phượng như xúm xít trên nền trời hoàng hôn thật phiêu linh…
Thời gian trôi theo quy luật bất biến. Công ty của Đại vẫn phát triển như diều gặp gió thì, từ tin đồn, rồi là sự thật, giám đốc công ty Hoa Đại là Phạm Văn Đại bị bắt tạm giam vì trốn đóng bảo hiểm cho công nhân. Ông Thụ đứng ngồi không yên. “Sao lại ra nông nỗi ấy hở Đại ơi. Sao mày làm quản lý lâu thế mà mày lại không “thuộc bài” hả Đại ơi”. Ông Thụ mất ăn mất ngủ, ông đã liên hệ với nhiều bạn bè thân hữu để tìm cách gỡ cho thằng Đại, nhưng vô vọng. Nghe đâu thằng Đại bị cô kế toán trưởng lừa thế nào đó. Hàng năm vẫn hạch toán, vẫn báo cáo tài chính đầy đủ, nhưng giờ thì hóa ra… cô kế toán có trình độ học hành cộng với nghề nghiệp chuyên môn giỏi nên cô ấy lừa Đại và lừa cả hội đồng quản trị công ty. Cơ quan cảnh sát điều tra ra chân tướng cô ta là trùm của một đường dây cho vay nặng lãi xuyên quốc gia, đường dây bị “vỡ”, cô ta trốn biệt luôn với số tiền hàng trăm tỉ đồng. Từ vụ án đó họ điều tra ra công ty Đại trốn thuế, trốn đóng bảo hiểm cho gần hai ngàn công nhân. Vụ việc vỡ lở, Đại đau đớn chấp hành lệnh bắt tạm giam. Ông Thụ suy sụp. Cả làng An Biên đều ngỡ ngàng đau xót khi Đại bị bắt tạm giam phục vụ công tác điều tra. Ai đó nói, phúc họa đời người như bàn tay sấp ngửa. Chợ làng buổi sáng ai cũng bàn tán và bảo mong chú Đại mau thực hiện thanh toán nợ nần với nhà nước mà về điều hành công ty cho làng xã được nhờ. Ông Thụ là xót xa hơn cả. Ông đã mừng khi thằng Đại đã kế tục được điều ông mong mỏi, mà nay thì… đúng như câu thơ của lão bạn đồng niên rồi, nhưng đọc lại thấy nó đau đớn hớn khi xưa ông ấy đọc tặng thằng Đại “Vườn sưa đỏ chim oanh chưa kịp hót…” thì sự nghiệp của thằng Đại đứng trên bờ vực phá sản. Nó thông minh, nó láu lỉnh học mót mà nên, sao đấu lại được với cái đứa lọc lõi như con bé kia. Mà thằng Đại sao cả tin đến mức ấy cơ chứ, khổ nỗi con bé kế toán trưởng lại là con cháu dâu gọi vợ ông Thụ là bác ruột. Con bé ấy cả làng ai cũng biết nó là đứa “sõi” mọi thứ, học hành giỏi giang, bằng cấp, nghề nghiệp nghiêm chỉnh, hỏi rằng thằng Đại không tin nó thì tin ai hơn! Kế toán với giám đốc như một cặp bài trùng rồi, không tin nhau làm sao làm việc được, hơn nữa, con bé kia lại là em dâu nó! Lòng ông Thụ như có lửa đốt. Ông đau đớn cho thằng Đại quá, mà đau đớn cho ông vô cùng, giá như ông biết can gián nó khi lựa chọn người về làm cùng, đừng vì tình thân nể nang mà lựa chọn mấy đứa cháu, đứa em sẽ khó xử trong công việc. Giờ thì đã quá muộn. Trong đầu ông Thụ chỉ còn lảng vảng mùi gỗ sưa đỏ như bị ai đốt cháy, khét lẹt. Ông đổ gục trước cái bàn uống nước được làm bằng chính thân cây gỗ sưa đỏ cũ càng đã sậm màu thời gian…
Trời chiều bên sông Cửu An màu mây cũng như sậm hơn mọi bữa.
V.T.N