TRẦN ANH ĐỨC
Dòng sông hồi sinh
Truyện ngắn dự thi
Trời vừa hửng sáng, màn sương mỏng như tấm lụa trắng phủ hờ lên rặng tre đầu làng, khiến khung cảnh làng quê như mơ màng trong giấc ngủ chưa tròn. Con sông Lệ Giang sau trận mưa dài ngày, nước đỏ au cuồn cuộn đẩy những bè lục bình trôi vô định, như mang theo cả những ưu tư thầm lặng của đất trời. Dòng sông uốn lượn mềm mại giữa hai bãi lau lách rì rào, tựa một dải lụa bạc cài giữa lòng quê. Dưới chân đê, lác đác vài nhóm người bắt đầu nhóm bếp, khói lam bảng lảng quấn quyện cùng mùi đất ẩm sau mưa, tạo nên một thứ hương thơm thân thuộc, vừa cũ kỹ, vừa dịu dàng như thể ôm ấp cả ký ức tuổi thơ của bao thế hệ.
Ông Hùng, người cựu chiến sĩ công an hình sự năm xưa đứng bên bờ sông, lặng nhìn dòng nước trôi. Dáng ông vẫn sừng sững dù tuổi tác đã bắt đầu đè nặng lên lưng, khiến nó hơi còng xuống nhưng ánh mắt vẫn ánh lên sự kiên định của một con người từng xông pha giữa bao trận tuyến cam go. Mái tóc đã ngả bạc gần hết, đôi mắt sâu hoắm, từng nếp nhăn trên gương mặt như ghi lại từng năm tháng cống hiến cho từng vụ án đã khép lại. Về hưu được một năm nay, ông tưởng sẽ sống cuộc đời bình dị, ngày trồng rau, nuôi gà, đọc báo, trò chuyện cùng bà nhà dưới tán cau già. Nhưng rồi như một sự sắp đặt kỳ lạ của số phận. Trong buổi họp xóm hôm nọ, bà con đồng lòng bầu ông làm thôn trưởng. Người ta nói: “Cả đời ông vì nước vì dân, giờ thôn mình cần người như ông chèo lái”. Ông không nói gì nhiều, là đảng viên trong đơn vị luôn gương mẫu đi đầu, nên khi về nghỉ hưu tại quê hương ông tham gia nhiệt tình, đóng góp ý kiến thẳng thắn vào hoạt động của Chi bộ xóm. Nên khi mọi người trong xóm tín nhiệm, bầu ông là ông gật đầu, lặng lẽ gánh thêm một phần trách nhiệm mới, trách nhiệm giữ gìn và dựng xây chính mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình.
Như thường lệ vào mỗi cuối tuần, ông thức dậy từ tinh mơ, đi bộ dọc triền đê rồi về nhà đun ấm chè xanh, chuẩn bị mời bà con hàng xóm sang uống nước, chuyện trò đôi điều.
- Dũng ơi! - Ông gọi con trai, giọng ấm và hồ hởi - Lát con ăn sáng xong nhớ sang nhà bác Nam, cô Lý, dì Nga, ông Thập... mời mọi người qua uống chè với ba nhé! Hôm nay ba vừa mua được bó chè xanh ngon lắm!
Rồi ông nheo mắt, như bật mở một cánh cửa ký ức:
- Sáng nay con không đi làm thì ngồi lại nghe ba kể một chuyện cũ... chuyên án 319T, vụ án mà ba và đồng đội đã theo đuổi suốt nhiều tháng trời để tìm ra sự thật.
Những hàng cau thẳng tắp ngoài sân đã ra chục mùa hoa thơm nức mũi. Vườn bưởi trước nhà đung đưa theo gió, mang theo mùi hương dễ chịu từ ngoài vườn len lỏi vào khoảnh sân gạch trước nhà nơi ông để bộ bàn ghế đá. Ấm sứ chè xanh được ông ủ cẩn thận, nóng hổi, nhìn là biết chè ngon khi có màu xanh cốm, hơi đậm màu. Làn khói mỏng trong cốc bốc lên. Hai tay cầm cốc ông uống ngụm đầu tiên, cảm giác chát nhẹ nơi đầu lưỡi sau đó là vị ngọt thanh lan tỏa dần ở cuống họng kéo dài, nhẹ nhàng và dễ chịu. Ông chiếp chiếp miệng, cảm giác khoan khoái sau khi uống, và dòng hồi tưởng bắt đầu.
Đó là một chuyên án phức tạp, khi đó ông đang là đội trưởng cảnh sát hình sự Công an huyện. Hơn hai mươi năm trong nghề và đã phá hàng trăm chuyên án lớn nhỏ. Đến giờ ông vẫn nhớ như in về chuyên án 319T không chỉ ở mức độ tinh vi, mà bởi cái cách ẩn mình trong màn kịch hoàn hảo suốt cả năm trời.
Một buổi sáng mùa Xuân năm 2012, từ người dân phát hiện thi thể nam giới trôi dạt trên thượng nguồn sông Lệ Giang. Công an huyện Nam Việt xác định thi thể đã phân hủy nặng, không có giấy tờ tùy thân, trên người chỉ có một chiếc đồng hồ điện tử và chiếc nhẫn bạc khắc chữ “T.H.”. Hiện trường không có dấu vết vật lộn, không vết máu. Xác bị vứt xuống sông, trôi gần ba ngày mới nổi. Đặc biệt, phần đầu có dấu hiệu bị vật cùn tác động mạnh. Đây là vụ án giết người phi tang xác rất nghiêm trọng.
Chuyên án được xác lập, bí số 319T. Lúc đó, ông được phân công làm trưởng ban chuyên án. Ông và các đồng đội sau khi họp phân công nhiệm vụ chia làm ba mũi: Xác định danh tính nạn nhân, khoanh vùng thời điểm tử vong, và điều tra các mối quan hệ xã hội nếu xác định được. Manh mối duy nhất lúc đó là chiếc nhẫn khắc “T.H.”. Từ các mối quan hệ của người dân trong vùng, kết hợp với dữ liệu mất tích trên toàn tỉnh, đồng đội ba khoanh vùng được một cái tên: Trần Hoàng, 34 tuổi, quê ở huyện Nam Giang, từng làm nghề sửa điện tử dạo, có thời gian thuê trọ ở huyện Nam Việt, mất tích không lý do từ đầu năm 2010.
Sau đó, ông Hùng và đồng đội về tận quê Nam Giang để điều tra thông tin nạn nhân. Bố mẹ già không liên lạc được với con hai năm nay, cứ nghĩ nó bỏ vào Nam. Nhận diện qua nhẫn, đồng hồ, cùng đặc điểm răng cửa từng trám bạc khớp hoàn toàn.
Kể đến đây, bà con làng xóm ai cũng tò mò. Ánh mắt đau đáu nhìn vào ông. Cô Lý xoa xoa cốc nước chè ấm hỏi ông ngay: “Làm thế nào để các anh tìm được ra manh mối?”.
Ông Hùng trầm ngâm một lúc kể tiếp. Vấn đề là Hoàng sống khá khép kín, không vợ con, ít bạn bè. Nhưng sau nhiều cuộc truy xét, chúng tôi phát hiện một người đàn ông tên Lê Văn Duy, ba mươi chín tuổi, làm nghề sửa xe máy gần nơi Hoàng từng thuê trọ, có dấu hiệu bất thường. Duy nổi tiếng là người đàng hoàng, sống mẫu mực, vợ con đề huề. Nhưng theo người dân, có giai đoạn hắn vắng mặt cả tuần, sau đó quay về với cánh tay bó bột, nói là do tai nạn xe. Thời gian đó... trùng đúng khoảng thời gian Hoàng mất tích.
Chúng tôi âm thầm dựng lại hành trình di chuyển của Duy qua dữ liệu thuê bao, camera an ninh (dù thời điểm đó chưa phổ biến). Bất ngờ, đêm 11-2-2012, điện thoại Duy phát tín hiệu gần khu vực cầu cách nơi phát hiện xác ba ki lô mét. Từ đó, hắn “im hơi lặng tiếng” năm ngày liên tiếp. Sau hơn bốn tháng điều tra thầm lặng, chúng tôi quyết định triệu tập Duy. Ban đầu hắn ngoan cố chối tội, nhưng khi bị đưa ra bằng chứng về định vị điện thoại, các nhân chứng thấy hắn và Hoàng từng cãi nhau về món nợ hai mươi lăm triệu đồng, và đặc biệt là lời khai từ một người bạn Duy rằng “nó từng nói lỡ tay đánh thằng kia ngã đập đầu vào tường”, Duy bắt đầu lộ sơ hở.
Cuối cùng, sau những bằng chứng thuyết phục, lập luận chặt chẽ của lực lượng công an, hắn đã cúi đầu nhận tội. Tối hôm đó, Hoàng đến đòi nợ, hai bên cãi vã, Duy lỡ tay đánh Hoàng ngã, máu trào mũi miệng. Hoảng loạn, hắn bọc xác bằng bạt, chở đi bằng xe máy trong đêm, ném xuống sông hòng phi tang. Vụ án khép lại, công lý được thực thi sau gần một năm tưởng chừng chìm vào quên lãng.
Ông kể đến đó, mắt bỗng ánh lên tia sáng kỳ lạ, vừa tự hào, vừa xúc động. Câu chuyện khép lại, nhưng dư âm còn ngân dài. Ấm chè xanh cũng vừa cạn, để lại đáy cốc một màu cốm non sóng sánh. Hôm nay, ông lại kể một câu chuyện, không chỉ là về phá án, mà là về lòng kiên trì, sự lặng thầm và cái tâm không đổi của một người đã dành cả đời để đi tìm công lý.
*
Lệ Giang, cái tên vừa là dòng sông hiền hòa vắt qua cánh đồng bát ngát, vừa là mái làng nhỏ bé, yên bình, nơi ông Hùng đã sinh ra và lớn lên, nơi ông gửi trọn tuổi thơ, và giờ là cả tuổi già. Người dân nơi đây sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, quanh năm cần mẫn với ruộng đồng, mưa nắng không ngơi. Những ngày giáp vụ, ai nấy lại kéo nhau đi làm thuê, làm mướn xa nhà, thêm thu nhập để nuôi con ăn học. Lũ trẻ, học hết lớp chín, lớp mười, đứa nào có điều kiện thì lên thị xã học nghề, còn lại phần lớn theo chân cha mẹ lên thành phố, làm công nhân trong những khu chế xuất. Có những mùa, cả thôn dường như rơi vào giấc ngủ buồn bã. Nhà nhà đóng cửa im ỉm, đường làng vắng bóng người, chỉ còn tiếng chim sẻ ríu rít bên những mái hiên cũ, vài cụ già lặng lẽ chẻ củi, nhóm bếp dưới hiên nhà loang nắng.
Ông Hùng trở về sau mấy chục năm công tác, mang theo một trái tim vẫn chưa từng thôi nghĩ về làng. Ông không muốn chỉ sống những tháng ngày còn lại bằng những buổi chiều nhâm nhi tách trà dưới bóng cau. Ông muốn làm gì đó. Một điều gì đó có ích, có thể khơi dậy sức sống cho mảnh đất quê nghèo. Nhiều đêm, ông trằn trọc, vắt tay lên trán, không ngủ được. Dũng con trai ông thương ba, hay lặng lẽ hỏi: “Ba lại mất ngủ hả? Con nấu ấm chè sen nhé, ba uống vào sẽ dễ ngủ hơn đấy”.
Nhưng ông không chợp mắt. Ông lặng lẽ dậy, mở giá sách, lấy ra tấm bản đồ thôn cũ, trải lên bàn gỗ. Ánh đèn vàng nhạt soi lên từng đường kẻ mảnh, từng cánh đồng, từng nhánh sông nhỏ. Mắt ông bỗng sáng lên khi dừng lại ở khúc sông Lệ Giang, đoạn sông hiền lặng, nước quanh năm trong mát, hầu như không có tàu thuyền qua lại. Một ký ức chợt ùa về, lần công tác thực địa ở Tây Bắc nhiều năm trước, ông từng thấy bà con nuôi cá lồng bè trên sông hiệu quả lắm. Tại sao làng mình không làm được? Chỉ cần thử...
Sáng hôm sau, ông bắt tay vào việc, rủ thêm Dũng và bác Nam cùng hỗ trợ. Không có vốn lớn, ông tận dụng tất cả những gì có thể như tre trong vườn, gỗ cũ, mấy chiếc thùng phi lâu ngày không dùng. Tất cả đều được gom lại, dựng thành những bè cá đầu tiên. Tiếng cưa, tiếng đục, tiếng búa gõ vang rộn ràng cả một góc sân. Những bản vẽ tay được ông phác trên giấy A4, nét vẽ chằng chịt phủ đầy mồ hôi và bụi gỗ. Nhưng ông không mệt, lòng chỉ rạo rực như năm xưa chuẩn bị phá án, lần này không tìm tội phạm, mà tìm lại niềm hy vọng cho quê hương.
Hai tuần ròng rã trôi qua, bốn bè cá đầu tiên đã nằm yên trên mặt nước. Ông và Dũng lại chạy xe lên tận huyện, mua về từng bao cá giống là cá trắm, cá chép, rô phi. Mỗi sớm, mỗi chiều, bất kể mưa hay nắng, người ta lại thấy ông chèo chiếc thuyền nhỏ ra sông, tỉ mỉ cho cá ăn, kiểm tra từng mắt lưới, từng thân cây tre. Ông tận dụng tất cả: tàu lá chuối, cỏ ven sông, lá sắn làm thức ăn tự nhiên cho cá. Nhìn từng đàn cá lớn lên, vẫy nước tung tăng giữa dòng, lòng ông ấm lại. Một tia hy vọng bừng sáng nơi khóe mắt, rằng rồi đây, làng quê này sẽ khác.
Và rồi điều kỳ diệu đã đến, lứa cá đầu tiên xuất bè, thương lái tìm tới tận nhà, giá cao lại dễ bán. Người dân trong thôn bắt đầu chú ý, hỏi han, bàn bạc. Thấy thế, ông Hùng không chần chừ. Ông đội nón lá, giữa trưa chang chang cùng mấy đảng viên trong Chi bộ, mang bản vẽ mô hình đến từng nhà vận động. Đến nhà cô Lý, ông Thập, bác Tư... ông kiên trì phân tích:
- Làm thử một vụ đi! Tôi đứng ra đảm bảo. Tôi đã có lãi từ lứa đầu tiên. Nếu mình cứ sống mãi bằng cây lúa, thì đời sống bà con còn khổ dài. Con cháu mình cứ phải đi tha hương mãi sao?
Lời ông như một hồi trống vang giữa lòng thôn cũ. Một mùa sau, từ vài hộ đơn lẻ, mô hình cá lồng đã lan rộng, hàng chục chiếc bè phủ kín một khúc sông quê. Buổi chiều, dòng sông rực rỡ ánh vàng khi mặt trời lặn, những chiếc thuyền nhỏ tỏa đi rải thức ăn, kiểm tra cá. Tiếng cười nói của người dân lại vang vọng giữa sông nước, như đánh thức cả một vùng quê từng trầm mặc. Ông Hùng không chỉ làm sống dậy một khúc sông, mà còn làm sống dậy niềm tin của cả làng.
*
Sáng sớm, sương còn đọng mỏng manh trên những tán chuối ven sông, ông Hùng ngồi lặng lẽ nhấp ngụm nước chè nóng. Vị đắng đầu lưỡi lan dần rồi dịu lại thành hậu ngọt, khiến lòng ông thêm phấn chấn khi nghĩ đến lứa cá mới đang đến kỳ thu hoạch. Bao công sức, bao hy vọng của cả làng đang dồn vào những lồng cá ấy, ông tin mọi chuyện sẽ ổn. Thế nhưng niềm vui ấy vừa lóe lên đã bị dập tắt bởi tiếng gọi thất thanh vang lên từ ngõ:
- Ông Hùng ơi! Ông Hùng ơi!
Tiếng cô Lý hàng xóm dồn dập, hốt hoảng như có chuyện chẳng lành. Vừa chạy vừa thở hổn hển, cô nói như bật khóc:
- Không hiểu sao... cá... cá chết nhiều lắm ông ơi! Mỗi nhà một ít, trắng cả một khúc sông. Tôi đầu tư hơn trăm triệu, giờ cá mà chết hết thì... thì lấy gì mà sống?
Tim ông Hùng như thắt lại. Không kịp lấy áo, ông lao ra bờ sông. Mắt ông quét vội xuống mặt nước. Bàng hoàng. Những thân cá bạc phếch nổi lềnh bềnh, mắt trợn trắng, thân mình lừ đừ như mắc cạn giữa cơn mê. Ông lật vội từng tấm lưới, soi vào từng lồng cá nhà mình cũng không khá hơn. Một cảnh tượng đau lòng. Bao nhiêu ngày đêm đổ mồ hôi, từng nắm cỏ, từng tàu lá chuối được chặt đem cho cá ăn, giờ đổi lại bằng sự im lặng đáng sợ từ lòng sông đang thoi thóp.
Ông cắn răng chịu đựng. Nỗi xót xa dâng đầy trong ngực. Nhưng hơn ai hết, ông hiểu lúc này không phải là lúc để than thân trách phận. Trong đầu ông nhanh chóng lướt qua hàng loạt giả thuyết: Có thể là do quá nhiều hộ cùng nuôi, việc vệ sinh lồng bè chưa đảm bảo? Có thể thức ăn thừa phân hủy tạo độc tố? Cũng có thể là do thời tiết...
Không chần chừ, ông lật đật đi khắp xóm, đến từng nhà, nhắc bà con rửa lồng sạch sẽ, tăng cường theo dõi cá, dọn dẹp cặn bã quanh lồng để ngăn dịch lan rộng. Ai nấy đều bối rối, lo lắng, nhưng nhìn thấy sự quyết đoán trong mắt ông. Ánh mắt của một người từng chỉ huy hàng trăm chiến sĩ phá án, họ dần lấy lại bình tĩnh.
Hôm sau ông vẫn đứng ngồi không yên, khi thấy tiếp tục có cá chết. Như ngồi trên đống lửa, ông bảo con cùng đi lên huyện nhờ cán bộ khuyến nông xuống thôn kiểm tra. Sau quá trình lấy mẫu, phân tích nguyên nhân ban đầu một phần từ những lồng bè được đặt quá gần nhau, vệ sinh chưa sạch sẽ lồng nuôi. Nhưng nguyên nhân chính là do lượng mưa kết hợp với không khí lạnh đột ngột, điều đó làm thay đổi các yếu tố của nước, độ đục, nhiệt độ và hàm lượng oxy hòa tan. Những biến đổi này tạo môi trường gây hại cho cá, gây nên hiện tượng chết hàng loạt. Một cán bộ khuyến nông động viên ông: “Cũng may thời gian mưa ngắn và xử lý vệ sinh nguồn nước nên vài hôm nữa là mọi chuyện sẽ ổn thôi”. Năm đó, may mắn khúc sông Lệ Giang không thiệt hại nhiều, người dân thu hoạch được giá cá. Người thì mua xe máy mới, người thì mua sắm được nhiều thiết bị trong nhà, người thì đầu tư lồng bè, cá giống nhiều chủng loại hơn để gia tăng đàn cá… Làng xóm đặt trọn niềm tin vào ông, một người chiến sĩ công an quả cảm, đi đầu trong công tác phát triển kinh tế nông thôn.
Năm này, ông chọn cho nhà thêm những giống mới như cá diêu hồng vừa khỏe vừa lớn nhanh, chống chọi được khí hậu địa phương. Nhưng đời không bao giờ êm đềm như dòng sông chảy. Tháng tám, khi bão số 7 đổ bộ, trận mưa như trút kéo dài ba ngày đêm, nước sông từ thượng nguồn đổ về ầm ầm, dâng ngập cả bờ đê. Dòng Lệ Giang hiền hòa ngày nào trở thành một con mãnh thú gào thét. Lồng bè bị nước lũ ào ào, đục ngầu cuốn trôi vỡ vụn từng mảnh trong nháy mắt. Tre nứa gãy vụn xoắn vào nhau, cá thoát ra giữa dòng lũ. Khi trời tạnh, cả bến sông như một bãi chiến trường hoang tàn, đầy củi tre, rác thải dạt vào bờ.
Ông Hùng mặc áo mưa, chân lội bùn run rẩy, đi từng bè cá sập. Mắt ông đỏ hoe hòa vào làn nước. Cả một năm công sức tan tành. Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các mấu chốt vụ án ông có thể cùng đồng đội tìm ra trong hàng năm trời. Nhưng trước sức mạnh của mẹ thiên nhiên. Mọi thứ dường như nhỏ bé, không chỉ là tiền của, đó còn là lòng tin mà ông gây dựng bấy lâu nay. Một số người bắt đầu rút lui, nói nhỏ với nhau: “Giá như đừng nghe theo ông Hùng”. Ông không trách. Chỉ lặng lẽ gom nhặt từng mảnh lồng vỡ, dọn sạch bùn rác dính đầy dưới móng bè. Bà nhà nhìn ông từ hiên, mắt lo lắng. Nhưng ông vẫn không nói lời nào.
Mấy ngày ông không muốn ăn cơm cháo gì nữa. Con trai ông thấy ông gầy xọp, da sạm đen cứ như mấy năm vừa rồi cuộc sống rất vất vả mưu sinh. Hàng ngày cậu thấy ba cứ ra ngắm sông rồi đi vào tiếc cho một vụ mùa công cốc. Cậu biết, với ba mình vụ cá không chỉ là làm ăn. Đó còn là khát vọng sống lại của một vùng quê, là ước mơ không để thế hệ sau phải ly hương.
Một chiều, Dũng khẽ đặt tay lên vai ông, giọng nghèn nghẹn: “Ba à, mọi chuyện cũng đã qua rồi. Mất cũng đã mất rồi… Ba ăn chút gì đi. Rồi ba con mình lại bắt đầu lại, gây dựng lại từ đầu mà!”.
Ông Hùng nhìn con, bàn tay run run nâng bát cơm lên. Vị mặn không biết từ nước mắt hay từ nước mắm chan vội. Nhưng lòng ông chợt ấm lên, một chút ấm như tro than chưa tắt. Phải rồi. Mất mát là để học cách vững vàng hơn. Thất bại là để biết đường đi phía trước cần chắc chắn hơn. Ông siết chặt đôi đũa, như tự nhủ với chính mình: Không bỏ cuộc. Nhất định không bỏ cuộc. Lần này, mình sẽ làm lại - cẩn trọng, vững vàng hơn từng bước.
*
Những ngày sau đó cán bộ khuyến nông huyện xuống xóm để tính mức độ thiệt hại sau cơn lũ quét qua. Từ đó huyện sẽ có chính sách hỗ trợ cho bà con xóm Lệ Giang, tùy vào tình hình và mức độ thiệt hại về kinh tế. Ông Hùng hỏi thêm cán bộ huyện về hoạt động tập huấn nuôi cá lồng bè: “Chú có biết tỉnh ta khi nào có lớp tập huấn về phát triển mô hình nuôi cá lồng bè theo hướng đi mới không?”.
Cán bộ huyện ngạc nhiên: “Tuổi này bác còn muốn tập huấn thêm à, tháng sau ở tỉnh có đó bác ạ. Mô hình này mới, dựa trên những công nghệ mới, sẽ có ích cho bác lắm đấy”. Ông như nắm được vàng, hồ hởi xin đăng ký lớp tập huấn. Hy vọng sẽ có sự cải tiến trong chính cách nuôi cá lồng bè, tạo nên mô hình bền vững, đưa lại kinh tế cao sau này…
Sáng sớm dòng sông hiền hòa lặng lẽ trôi, hai bố con dậy sớm Dũng chở bố lên tỉnh để tham dự khóa tập huấn. Ở đây ông như được mở mang về mọi thứ từ cách làm lồng sắt chịu lực, xử lý nguồn nước, học phòng chống bệnh cho cá. Ông hiểu bấy lâu chỉ là kinh nghiệm của bản thân, chưa phải làm một cách khoa học. Lồng của ông bằng gỗ và tre nên khả năng chịu lực chưa cao, phải thay bằng ống típ sắt có phi 42 hoặc 49, sắt phải được mạ kẽm hoặc ống nhựa HDPE phi 200. Khung lồng được nâng bằng thùng phuy sắt hoặc nhựa hai trăm lít và được cố định vào khung lồng bằng dây thép, neo ở bốn góc hoặc neo lồng bằng dây tại các trụ làm trên bờ may ra mới chịu được lực khi nước lũ tràn về. Rồi ông hiểu hơn về cách đặt vị trí lồng, không phải chỗ nào cũng đặt được, môi trường nuôi phải đảm bảo độ pH, lượng oxy hòa tan phải đủ… và cách chọn con giống, thức ăn cho cá phải đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng theo quy định, giờ cho ăn, từng loại cá thì ăn loại gì… tất cả được ông ghi lại một cách đầy đủ như vừa khai sáng một vấn đề nào đó.
Thời gian học tập trung chẳng mấy chốc đã hết khóa. Ông xin cán bộ tỉnh sau này hỗ trợ ông thêm về kỹ thuật nuôi cá để giúp xóm làng cùng có cơ hội bắt đầu lại. Với số tiền được hỗ trợ sau cơn bão, ông đã mạnh dạn vay vốn ở Ngân hàng Nông nghiệp huyện để thực hiện mô hình mới.
Lần này lồng bè đã trở nên chắc chắn từ lưới đến các ống típ chịu lực, được gia cố bằng dây neo, lượng nước được theo dõi đều đặn, cá giống được đủ cứng cáp, có sức đề kháng tốt mới được thả ra lồng. Mọi thứ theo một quy trình nghiêm ngặt, có ghi chép theo dõi lại toàn bộ quá trình thực hiện nên khi có sự cố gì ông đã kịp thời có biện pháp xử lý hiệu quả. Đàn cá lớn nhanh từng ngày, bơi lội tung tăng trên dòng sông Lệ Giang, con nào con nấy chắc nịch. Chưa đầy một năm, năng suất cá tăng gấp ba lần, giá cao, thương lái đặt hàng đều đặn, lãi hàng trăm triệu đồng.
Rồi ông xin tài trợ từ các chương trình nông thôn mới, kêu gọi doanh nghiệp hỗ trợ xây lồng mẫu. Mời cán bộ khuyến nông ở tỉnh về giảng giải cho bà con về hướng đi mới bền vững không ảnh hưởng đến môi trường. Bà con làng trên xóm dưới tin tưởng, đi theo mô hình của ông. Bà con xúm vào cảm ơn, gọi ông là “ông Hùng của sông”. Nhưng ông chỉ xua tay: “Tôi chỉ khơi nguồn, dòng chảy là của các bác, các anh, các chị”.
*
Năm ấy, làng Lệ Giang được chọn làm điểm kiểu mẫu phát triển kinh tế nông thôn dựa trên tài nguyên bản địa. Học sinh có học bổng đi học, người lớn có việc làm tại chỗ, nhiều gia đình xây được nhà mới, sắm được xe máy. Không khí làng quê như được thay máu.
Một buổi chiều, ông Hùng ngồi bên bờ sông, bên tách chè nóng, nhìn từng con cá quẫy dưới bè thép sáng loáng. Gió từ sông thổi về mát rượi. Con trai ông hiện là cán bộ ở tỉnh gọi điện về: “Ba, con đọc báo thấy người ta khen làng mình nhiều lắm. Ba giỏi thật”.
Ông cười: “Ba không giỏi. Ba chỉ không muốn nhìn thấy quê mình nghèo mãi”.
Và rồi như một thói quen, ông đứng dậy, đi dọc theo mép nước, chạm tay vào từng thanh sắt, từng lưới lồng, như thể cảm ơn dòng sông đã cùng ông hồi sinh, không chỉ kinh tế, mà cả tinh thần, cả niềm tin một thời tưởng chừng đã trôi theo lũ.
Dòng Lệ Giang hôm nay vẫn trôi, nhưng đã khác. Nó mang theo hy vọng, mang theo câu chuyện về một người lính già không chịu đầu hàng số phận. Một con người tưởng đã lui về bóng xế, lại trở thành tia sáng dẫn đường cho bao cuộc đời khác. Và đâu đó, trong ánh nắng chiều nhuộm đỏ mặt nước, ta thấy ánh mắt ông Hùng vẫn kiên định, vẫn nồng nhiệt như thuở còn khoác áo ngành, vẫn đau đáu một điều duy nhất: Làm sao cho đất lành, nước ngọt và người quê hương sống một cuộc đời xứng đáng.
T.A.Đ