Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Bình luận văn nghệ   /   Thi pháp Hữu Thỉnh qua trường ca "Đường tới thành phố" - Nguyễn Minh Khiêm
Thi pháp Hữu Thỉnh qua trường ca "Đường tới thành phố" - Nguyễn Minh Khiêm

Trường ca “Đường tới Thành phố” của nhà thơ Hữu Thỉnh xuất hiện lần đầu trong tập thơ “Từ chiến hào tới thành phố” (Nxb Văn học, tháng 5-1985), nâng tầm thơ Hữu Thỉnh lên một đỉnh cao mới trong nền thơ hiện đại Việt Nam.                                   
Với “Đường tới thành phố”, tác giả nổi lên như một lá cờ đầu của thơ Việt Nam sau năm 1975. Giá trị của Trường ca “Đường tới thành phố” được nhiều nhà phê bình, nghiên cứu văn học khẳng định trong nhiều bài viết, nhiều cuộc Hội thảo, nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ. Sự ra đời của “Đường tới thành phố” đã thay đổi không khí phê bình văn học đương đại. Nó được đẩy lên cung bậc mới, một xu hướng mới, sức hấp dẫn mới. “Đường tới thành phố” đã đóng góp rất lớn về cả giá trị nội dung và nghệ thuật. 
Về giá trị nội dung, “Đường tới thành phố” là bản trường ca dựng lại, tái hiện một thời kỳ khốc liệt nhất, gian khổ nhất, chịu đựng hy sinh nhất, bi tráng nhất trong cuộc chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, cuộc kháng chiến thần thánh, vĩ đại, hào hùng bậc nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nó ca ngợi tinh thần yêu nước, kiên cường, bất khuất, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam bách chiến, bách thắng. Từ trong chiều sâu tác phẩm, những giá trị nhân văn, giá trị triết lý đánh giặc, thắng giặc mang đậm nét truyền thống Việt Nam, sức mạnh đoàn kết Việt Nam, lịch sử Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Chưa trường ca nào trước “Đường tới thành phố” sức mạnh tổng hợp chiến tranh nhân dân, lòng yêu nước nồng nàn, quật khởi, tự giải phóng, được xây dựng, phản ánh sinh động, trung thực, thể hiện sâu sắc, tự nhiên, toàn diện, tràn ngập niềm lạc quan của một cuộc chiến tổng lực như “Đường tới thành phố”. “Giặc đến/ Người ốm chống giường, chống phản đứng lên/ Trẻ con vơ tro vơ cát đứng lên/ Người đang ăn thì cầm lấy đũa/ Người đi gặt thủ lấy chuôi liềm/ Không quay mặt, chẳng bao giờ tiếc máu”; “Lòng cứ đầy những Bình Định, Nha Trang”; “Cửa hầm trông ra sáu bậc cầu ao/ Những sơ đồ chị gói làm nhân bánh/ Giặc hành quân: Nhìn khăn mẹ trên đầu”. Chính cuộc chiến sáng chói tinh thần đoàn kết dân tộc ấy đã khiến kẻ thù tàn bạo, man rợ, hùng mạnh, điên cuồng bậc nhất thế giới thất bại nhục nhã, cay đắng: “Lá cờ 50 ngôi sao/ Cuộn thành một tổ sâu/ Nước Mỹ ra đi với một khuôn mặt héo”. Tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” (Lời Hồ Chủ tịch) ngẩng cao đầu chiến thắng: “Cờ bay lộng trên nóc dinh độc lập/ Những cánh quân sum họp những chân trời”. Đó là những cánh quân từ Thành cổ, Trường Sơn, Địa đạo Củ Chi, bưng biền Đồng Tháp, U Minh Thượng, U Minh Hạ, đoàn tàu Không số, biệt động Sài Gòn trở về thành phố tràn xúc động “Đeo quanh anh không phải những vòng hoa/ Không nguyệt quế, không cầu vồng huyễn hoặc/ Đeo quanh anh là những vòng người/... / Anh lồng đi phá cửa các nhà tù/ Vai anh đỡ những người ốm lả/ Họ không còn sức để cười để khóc/ Toàn thân họ đã biến thành nước mắt/ Trên vai anh nóng bỏng tự do”; “Tháng tư nay cây cỏ cũng ra tù”. Một cuộc giải phóng siêu thực. Giá trị của nó mang tầm vóc lớn lao của lịch sử. Những giá trị ấy mang tên Hữu Thỉnh. Nó là một dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh, khẳng định tư tưởng, tầm nhìn, thi pháp Hữu Thỉnh.
Một giai đoạn văn học, một thời đại văn học, một nền văn học có thể sản sinh ra hàng trăm hàng nghìn nhà thơ, nhưng định hình được một giọng điệu riêng, khẳng định được một thi pháp nổi trội, đặc trưng, ai cũng nhận ra thì không nhiều. Ví như, đọc “Đây thôn vĩ dạ”, “Mùa thu chín” nhận ra Hàn Mặc Tử. Đọc “Nhớ rừng” nhận ra Thế Lữ; đọc “Tiếng thu” nhận ra Lưu Trọng Lư; đọc “Tây tiến” nhận ra Quang Dũng; đọc “Đèo Cả” nhận ra Hữu Loan; đọc “Tiểu đội xe không kính” nhận ra Phạm Tiến Duật; đọc “Bài ca chim Chrao” nhận ra Thu Bồn; đọc “Đất nước hình tia chớp” nhận ra Trần Mạnh Hảo; đọc “Đường tới thành phố” nhận ra Hữu Thỉnh. Về giá trị nghệ thuật văn chương, “Đường tới thành phố” định  hình một ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh, một cấu trúc thơ, cấu trúc trường ca Hữu Thỉnh, một kiểu tư duy Hữu Thỉnh (có người gọi là cách lập ngôn Hữu Thỉnh), phong cách, bút pháp thơ Hữu Thỉnh. Nhìn tổng thể, nó thể hiện một minh triết Hữu Thỉnh. Trước “Đường tới thành phố”, ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh cũng đã manh nha cách nghĩ, cách cảm nhiều tầng vỉa kiểu như “Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn/ Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím”(Thơ viết ở biển), hay “Xin mẹ lại cho con bắt đầu đi gánh nước/ Gánh bao nhiêu trong mát để dành” (Ngôi nhà của mẹ). Tuy bài Chuyến đò đêm giáp ranh, Những tiếng chim xuân, Chợ chim, Bầu trời trên giàn mướp, Thơ viết ở biển, Sang thu... hiển lộ tài hoa dùng chữ, nghệ thuật dùng chữ của nhà thơ. Rất nhiều câu thơ lạ: “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu/... /Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi” (Sang thu). Nhưng phải đến trường ca “Đường tới thành phố”, cách nghĩ ấy, cách cảm ấy, cách dùng chữ ảo diệu mang thương hiệu Hữu Thỉnh mới thật sự chín, thật sự đơm hoa kết trái, tỏa hương, phát sáng. Ông sáng tạo ra một loại thơ tích hợp vi ngữ và vĩ ngữ ở cấp độ cao. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, đó là sự tích hợp hai trong một, ba trong một, năm, sáu trong một “Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng/ Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió”; “Những cánh đồng in dấu chân của mẹ/ Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi”; “Chúng ép anh từ hai phía chiến trường”; “Dòng Nậm Khìn từ bên Việt chảy sang/ Thèm vỏ sắn lật mình trôi dưới đáy”; “Đã trở về từng hạt muối ngoài khơi/ Từng đọt măng trên rừng từng đám mây lưu lạc”. Đó là một thứ ngôn ngữ thơ tinh tế, tinh chất, tinh xảo, trong suốt. Gorky nói, cái dằn vặt lớn nhất ở trên đời là dằn vặt về ngôn ngữ. Hữu Thỉnh có đủ mọi loại ngôn ngữ, đủ mọi chiều kích tư duy, đủ mọi thủ pháp nghệ thuật, dùng chữ nghĩa, xử lý ngôn ngữ điêu luyện đến mức không ai cảm thấy một gợn dằn vặt nào khi đọc những câu thơ “Cây rơm gầy xay giã cũng thưa đi”; “Có người chỉ huy từ lứa chúng tôi lên/ Góp cho đất nước nhiều vầng trán”; “Một buổi sáng chẳng có gì to tát/ Con ve kêu úp mặt vào cây”; “Anh lớn lên đâu biết trước một ngày/ Ngồi nhặt sấu dưới vòm cây sốt rét/ Nắng ký ninh rải rác dọc rừng thưa/ Thèm trăm thứ nhưng đồng bằng thèm nhất”. Ngôn ngữ ấy là ngôn ngữ ngọc trai, được luyện lọc, trải nghiệm. Nó tích hợp vốn sống, sự từng trải, kỷ niệm, ký ức, kinh nghiệm, lịch sử, truyền thống, văn hóa, bản thân, đồng đội, dân tộc, xương máu, tình yêu, hạnh phúc. Những câu thơ ấy nhuần nhuyễn mọi lý thuyết, mọi quan niệm về thơ, mọi cái hay, cái mài. Càng mài, mài càng khéo thì thấy càng sâu, càng hiện lên nhiều vẻ đẹp kỳ ảo. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã tạo nên một kiểu cấu trúc cho riêng mình. Một kiểu đẹp, mọi cái giá trị trường tồn của thơ. Đó là những câu thơ viết bằng nghệ thuật cấu trúc mang tên Hữu Thỉnh. Nó mang thương hiệu, nhãn mác, được dán tem Hữu Thỉnh. Mỗi câu thơ là một cấu trúc Hữu Thỉnh đơn lập. Nhiều câu thơ trong trường ca tạo nên chuỗi cấu trúc Hữu Thỉnh. Nếu xâu chuỗi, móc nối với một số bài thơ ngắn Chuyến đò đêm giáp ranh, Những tiếng chim xuân, Chợ chim, Bầu trời trên giàn mướp, Thơ viết ở biển, những kiểu câu thơ như thế tạo nên dải cấu trúc thơ Hữu Thỉnh. Điều kỳ diệu là, phân tích cấu trúc, chuỗi cấu trúc, dải cấu trúc thơ Hữu Thỉnh trong trường ca chính là phân tích toàn bộ giá trị nội dung, tư tưởng, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Nói cách khác, đó là giá trị thi pháp Hữu Thỉnh. Ta tìm thấy trong các cấu trúc, các chuỗi cấu trúc, dải cấu trúc trữ lượng hội tụ, sự cài đặt, thêu dệt, tích hợp, sự chứa đựng vô cùng lớn các tham số xúc cảm, tư duy, kiến thức, trí tuệ, sự gửi gắm của tác giả. Người đọc không bao giờ quên được những chi tiết, những hình ảnh tác giả viết về những người lính. Đó là những câu thơ xuất thần, đẹp, gợi, giàu liên tưởng, tưởng tượng, mang thương hiệu riêng chỉ có ở Hữu Thỉnh. Đọc lên là nhận ra Hữu Thỉnh. Có nhiều câu sức khái quát lớn, sức phủ lớn, chi phối sự cảm nhận, phân tích đối với độc giả “Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng/ Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió”; “Lửa đang soi mặt đất mấy tầng đêm/ Những cơn khát bậm môi vào bẹ chuối”; “Anh quên thơ để nhớ gốc sim cằn/... / Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được/ Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn/ Tổ quốc sẽ ra sao Tổ quốc”. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã sáng tạo ra một kiểu cấu trúc câu thơ độc đáo, trước đó chưa thấy xuất hiện “Trận đánh bắt đầu từ phía sau cánh cửa/ Có dấu vôi mẹ quệt lúc ăn trầu”; “Cho em ngập ngừng khi buông gầu xuống giếng”. Trình độ sử dụng ngôn ngữ của ông đạt đến độ tế vi khiến đôi khi ta tưởng ông chỉ sử dụng duy nhất bút pháp tự sự hiện thực trữ tình. Nhưng ông tỏ ra là bậc thầy trong sử dụng nghệ thuật siêu thực. Ta bắt gặp hàng loạt những câu thơ thế này “Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”; “Những cánh đồng và dấu chân của mẹ/ Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi”; “Thơ hãy góp một vài que củi/ Cho em nhận ra anh, đồng đội nhận ra mình”; “Tháng tư nay cây cỏ cũng ra tù/ Mùa thu đón bằng cơn mưa nồng nhiệt”. Nhập tâm nó. Ngân nga nó. ấy thế mà không mấy ai bàn đến giá trị nghệ thuật hiện đại, trường phái này, trường phái kia của nó. Người đọc bị cái tinh tế của nó dẫn đi, bị cái nhuần nhuyễn mê hoặc cuả nó dẫn đi. Nó chỉ có cái hay, cái hấp dẫn, cái men dụ. Người viết quên mình viết văn. Người đọc quên mình đọc văn. Nó không còn hình thức nữa. Khi sáng tác, Hữu Thỉnh đạt được độ buông thả chữ nghĩa, buông thả bút pháp. Đó là “tuyên ngôn” về thơ của nhà thơ. Đó cũng là tuyên ngôn về ý chí bảo vệ độc lập, tuyên ngôn bất di bất dịch về chủ quyền dân tộc của người lính. Phải già dặn lắm, lọc lõi lắm, công phu mài dũa lắm mới đến được cái tinh xảo, gợi, nhiều điểm chạm. Nó không trộn lẫn với bất cứ loại ngôn ngữ văn chương nào khác.                                                                                                                                                           Cấu trúc trường ca “Đường tới thành phố” của nhà thơ Hữu Thỉnh có hai tuyến nhân vật trữ tình: Một tuyến là những người đàn ông. Một tuyến là những người phụ nữ. Những người đàn ông là những người lính (danh thi là anh, đồng chí, chính ủy, tôi, chúng tôi, xạ thủ trung liên lưỡng quyền cao, con); Những phụ nữ là những người mẹ, người chị, người em, người vợ, người yêu (danh thi trong tác phẩm cũng là mẹ, chị, em). Hai tuyến nhân vật trữ tình này song hành như hình với bóng suốt hai nghìn một trăm mười chín câu thơ, từ chương một đến chương năm trường ca. Một số trường ca lớn của nước ta (ra đời trước và sau “Đường tới thành phố”) như “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, “Bài ca chim Chơrao” của Thu Bồn, “Đất nước hình tia chớp” của Trần Mạnh Hảo; “Trường ca sư đoàn” của Nguyễn Đức Mậu cũng có hình ảnh người phụ nữ nhưng lại được hình thành theo một cấu trúc khác. “Đường tới thành phố” là cấu trúc là đặc trưng thi pháp Hữu Thỉnh. Trong trường ca, tuyến nhân vật trữ tình - Đàn ông, là tuyến chính hình tựợng trung tâm. Đó là những người lính, những anh bộ đội Cụ Hồ, trực tiếp chiến đấu trên chiến trường, mặt giáp mặt với kẻ thù. Nó biểu hiện trực tiếp sức mạnh đối kháng, trực tiếp tinh thần quyết chiến quyết thắng, đối diện trực tiếp cái chết, gian nguy, khốc liệt, sự tàn bạo bậc nhất của kẻ thù, giành và giữ từng tấc đất núi sông, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Gian khổ, thách thức, ý chí độc lập dân tộc hiện qua chân dung người lính, những người “Quen nghĩ bằng trận đánh/ Quen hy sinh, Quen đột biến từng giờ/ Họ làm nên những chiến trường giông bão”; hình ảnh họ được vẽ, được chạm khắc rõ đến từng mi-li-mét. Đó là cái đẹp của tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng mãnh liệt nhất thấm đẫm trong trái tim, khối óc người lính. “Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được/ Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn/ Tổ quốc sẽ ra sao Tổ quốc”. Hình ảnh gốc sim trở thành biểu tượng cho sự toàn vẹn lãnh thổ, cho ý chí “một tấc không đi, một ly không rời” của ông cha ta từ nghìn xưa để lại. Cái giá của hòa bình quá đắt với một dân tộc yêu độc lập tự do được ông điển hình hóa bằng một gam màu nóng rực “Thêm một người bị cắm cọc bêu đầu/ Thêm một người bị lôi đi mất tích/ Thêm một người bị chụp ảnh lăn tay/ Thêm một làng bị quăng bom hủy diệt”. Ông nói về xương máu đổ xuống theo một cách rất lạ “Lá cờ anh trao cho đơn vị chủ công/ Đã qua tay đồng chí thứ ba/ Vẫn chưa bay trên nóc nhà thị chính”. Ông khẳng định sự cần thiết của người lính cũng theo một cách rất lạ “Những chiếc xe tăng đòi anh nguyên vẹn/ Những vết thương đòi anh lành lặn”. Người lính chính là biểu tượng cao đẹp của hòa bình, là linh hồn của cuộc chiến đấu “Năm cánh quân từ năm hướng trở về/ Thành phố đầy áo trận”, “Mình quấn đầy băng trắng/ Anh giơ tay cả thành phố động lòng”. Các anh là “Năm mươi triệu đứa con/... Những người yêu của những người yêu/ Niềm trông đợi của những niềm trông đợi/... / Những con đường ôm chầm lấy các anh/ Cùng một lúc ôm bao miền đất nước”. Khát vọng thống nhất. Khát vọng hòa hợp. Khát vọng một nhà. Tất cả vang lên như một bản anh hùng ca khi nói về người lính. Họ rạng ngời, tỏa sáng, khắc khảm, in đậm không phai mờ trong lòng người đọc.
Những gì tuyến nhân vật trữ tình người lính chưa lý giải hết về sức mạnh của quân đội Việt Nam, dân tộc Việt Nam, chưa lý giải hết về phẩm chất chịu đựng hy sinh, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống Việt Nam, sự vĩ đại, tính nhân văn, văn hóa được ông lý giải bằng tuyến nhân vật trữ tình phụ nữ. Điều đặc biệt, trong trường ca “Đường tới thành phố”, những người phụ nữ không được xây dựng như một chuỗi nhân vật chính tuyến. Nó được sinh ra từ trong ký ức, nỗi nhớ, tình yêu, tâm trạng, hoài niệm, lo âu, chờ đợi, hy vọng của những người lính. Xét về mặt hình tượng, những người lính như những ngọn núi hùng vĩ, trùng điệp, chất ngất, kiêu hãnh. Những người phụ nữ như biển, như vịnh, như sông, như suối. Người lính là dương bản của cuộc kháng chiến. Người phụ nữ là âm bản. Những gì vượt lên mặt đất, dễ đập vào mắt, dễ nhận thấy. Những gì nằm sâu dưới đáy bể khó nhận ra. Vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam, vẻ đẹp của cuộc kháng chiến chống Mỹ không phải chỉ có phần nhìn thấy. Rất nhiều phần khuất lấp. Hơn ai hết, nhà thơ Hữu Thỉnh xuyên thấu các trầm tích ấy, các tầng ngầm ấy. Tất cả những cái chưa nhìn thấy không những được ông mở ra, gọi ra, thành tên, thành hình hài dáng vóc mà còn được ông chưng cất, luyện lọc tinh chất nhất, lung linh nhất, ngời sáng nhất và ngân vang nhất. Tuyến nhân vật trữ tình phụ nữ xuất hiện trong trường ca “Đường tới thành phố” chính là thi pháp Hữu Thỉnh. Bất cứ dòng nào, khúc nào, chương nào đụng đến hình ảnh người phụ nữ là chương ấy, khúc ấy đầy sáng tạo mới mẻ. Thi hứng nhà thơ thăng hoa, bùng cháy, đầy liên tưởng, đầy dồn nén cả về chiều sâu, chiều rộng khi nói về họ. Ta cảm nhận được nét đậm đặc nhất tâm hồn phụ nữ Việt Nam giàu lòng nhân hậu, nhân ái và nhân văn. Những người mẹ, người vợ, người chị trong “Đường tới thành phố” thể hiện tuyệt vời nhất phẩm chất, phẩm giá, tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, của một dân tộc kiên cường bất khuất, quả cảm. 
Nhà thơ nào cũng nói về người yêu, về mẹ, về vợ, về em. Nhưng “em là vùng che chở” thì đến Hữu Thỉnh mới xuất hiện “Em có nghe thấy không/ Em xa cách em là vùng che chở”. Không phải chỉ tôn thờ tình yêu, không phải chỉ da diết nhớ, không phải chỉ giàu lòng bao dung vị tha mà phải nhân văn lắm, cao cả lắm, hiền triết lắm mới viết được câu thơ như thế. Không ai hiểu người đàn bà bằng người đàn ông. Tôi nghĩ, trong những người đàn ông, không ai hiểu người phụ nữ bằng nhà thơ Hữu Thỉnh. Họ vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến. Họ là bóng mát tình yêu, là nơi nương tựa vững chãi tinh thần cho người lính “Đất thầm thì và nóng bỏng như em”, “Em không phải sau lưng/ Em đang ngồi trước mặt/ Bởi anh biết, em ơi anh biết/ Cuối chặng đường là nỗi nhớ gặp nhau”, “Nếu em buồn rừng còn có gì che”, “Em ơi em, em là biển của đời anh/ Là vụng kín/ Là bến bờ nương tựa”. Những người mẹ, người vợ, người chị, người em là nơi chia sẻ từng khoảnh khắc tâm trạng, từng giây phút suy tư, từng thoáng qua trải nghiệm. Đối với người lính, người phụ nữ là nơi tan đi bão tố sóng thần, tan đi giông lốc “Sau những lần hổ vồ/ Sau những lần voi đuổi/ Sau bữa canh nấm độc cào gan/ Giặc đổ quân vào hậu cứ sư đoàn/ Hất anh qua biên giới”. Nỗi đau trong tim là có thật. Cái bàng hoàng khi chứng kiến kẻ thù nói với nhau bằng âm thanh loài thú là có thật. Nhưng nỗi đau ấy không thể đặt lên đầu lưỡi. Cái dã man, vô nhân tính, bản chất tàn bạo, phi nghĩa của cuộc chiến tranh Mỹ Ngụy gây ra là có thật được đặc tả trong đoạn bọn giặc đối thoại với nhau “Hãy lấy đạn mà cưa thằng cuồng tín/ Một thằng ngu muốn chết thay cây/ Cứ bò tới chộp cho thật lẹ/ Rồi moi bụng nó ra/ Xem có máu hay chỉ toàn hắc ín/ Tao muốn coi nó chết từ từ/ Coi nó chết nó gọi ai trước nhất/ Thôi hãy quăng lựu đạn đi thôi/ Cho nó chết thiệt mau để tao còn chụp ảnh/ Tao cần tiền chứ tao không cần nó”... “Em có tin đấy là tiếng con người”. Ông nói về cái ác của kẻ thù nhưng chính là khẳng định cái tính mạng người lính, cái giá phải trả cả tinh thần lẫn xương máu của người lính.
Phụ nữ là một nửa của cuộc kháng chiến vĩ đại. Họ chứa đựng một nửa lịch sử, một nửa vinh quang. Nhưng không phải một nửa cay đắng. Hai phần cay đắng. Nhiều hơn thế. Mọi sang chấn của cuộc chiến đều vọng dội vào họ. Tình yêu bấp bênh. Hạnh phúc bấp bênh. Họ chịu hai thứ chiến trường, hai thứ bom đạn, hai thứ tra tấn. Một thứ trực tiếp trên da thịt xương máu. Một thứ gián tiếp trong tinh thần, trong tâm hồn, trong con tim khối óc. Nửa trước của cuộc chiến tranh họ gánh đã nặng. Nửa sau cuộc chiến tranh họ gánh còn nặng hơn. Diễn đạt được đa chiều, đa diện, đa góc cạnh không lặp, không nhàm chán, không gò bó là rất khó. Nhà thơ Hữu Thỉnh linh hoạt trong cách xây dựng nhân vật biểu cảm. Người phụ nữ, lúc là mẹ, lúc là vợ, lúc là chị, lúc là em, lúc là cô. Bằng cách ấy, Hữu Thỉnh đã chuyển tải được ý tưởng mà chủ đề tác phẩm muốn đạt tới. Ta thấy hình ảnh người phụ nữ đào củ chụp gian khổ, vất vả nhưng rất lạc quan “Củ chụp thôi đâu phải là trầm/ Đâu phải ngọc trai mà hiếm hoi lặn lội/ Rừng cồn gió bụng người thì đói/ Em vừa đào vừa hát Sài Gòn ơi”. Người phụ nữ chịu thêm một thứ bom đạn khác, một sự khốc liệt khác, một sự tra tấn, giày vò khác khốc liệt hơn bom đạn chiến trường “Chị nuôi anh dưới đất/ Năm năm trời anh nhìn chị trong đêm/ Chị gặp anh mà không hay anh đen hay trắng/ Chị nghe giọng anh mỗi ngày nặng xuống/ Chị góa bụa trong hồ sơ tự khai/ Chị cười cợt với thằng chỉ điểm/... / Chị cố làm cho thật lẳng lơ/ Thắt vạt áo trước bao điều dị nghị”. Nếu trong “Người con gái Việt Nam”, nhà thơ Tố Hữu miêu tả thành công nhất, thành công đến hắc ám và rùng rợn nỗi đau xương thịt bị bọn giặc tra tấn theo cách tra tấn thời trung cổ “Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung/ Không giết được em người con gái anh hùng” thì Hữu Thỉnh miêu tả thành công đến tột đỉnh nỗi đau bị tra tấn về tinh thần. Khi nói về nỗi đau, sự chịu đựng hy sinh thầm lặng của người phụ nữ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bất kỳ một ai, một người nào đã đọc trường ca “Đường tới thành phố” không bao giờ quên, không thể nào quên được đoạn thơ Hữu Thỉnh đặc tả nỗi cô đơn, mất mát, xé tim “Chị đợi cờ quay mặt vào đêm/ Hai mươi năm mong trời chóng tối/ Hai mươi năm cơm phần để nguội/ Thôi tết đừng về nữa chị tôi buồn/ Thôi đừng ai mừng tuổi chị tôi/ Chị tôi không còn trẻ nữa, xóm làng thương ý tứ vẫn kêu cô/ Xóm làng thương không khoe con trước mặt/ Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy/ Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc/ Vẫn được tiếng là người ở vậy/ Nhưng anh tôi vẫn còn/... / Mươi năm áo gấm đi đêm/ Chị mỡ màu mà anh tôi chẳng biết/ Nhưng chị tôi không thể làm như con rắn que cời/ Lột cái xác dưới gốc cây cạm quẫy/ Chị thiếu anh nên chị thừa ra/ Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại/ Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cút một mình/ Những đêm trở trời trái gió/ Tay nọ ấp bàn tay kia/ Súng thon thót ngoài đồn dân vệ/ Một mình một mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền/ Chị vẫn nhớ anh và mong anh như thế”. So sánh nỗi đau của chị (Người đàn bà - Nhân vật trong thơ của Hữu Thỉnh) với nỗi đau của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, nỗi đau của nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du ta thấy có một sự khác biệt vô cùng lớn. Nỗi đau của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương là nỗi đau không được thỏa mãn tình dục, không được thỏa mãn xác thịt mà đau; nỗi đau của nàng Kiều trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du “lá gió cành chim/ Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm chàng Khanh”, “Đưa người kẻ trước rước người kẻ sau”,“Chơi cho liễu chán hoa chê/ Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời”, chơi cho “Đào hoen quẹn má, liễu xơ xác mày” không còn cái gì nữa để mà đau; còn chị, người vợ, người phụ nữ Việt Nam trong cuộc chiến tranh còn nguyên vẹn tất cả để mà đau. Nỗi đau queo lại, kết lại, đóng vón lại, không thể nào tan được. Đó là nỗi đau khủng khiếp. Đó là phụ nữ Việt Nam. Đó là vẻ đẹp di truyền huyền bí của văn hóa Việt Nam, lịch sử Việt Nam. Không thể phủ nhận, đó là một phần phẩm chất dân tộc Việt Nam, sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Bom đạn kẻ thù bất lực bởi sức mạnh ấy. Mọi trí tuệ kẻ thù, những bộ não chiến tranh thông minh nhất của kẻ thù bất lực bởi sức mạnh ấy. Phát hiện này mang tên thi pháp Hữu Thỉnh, minh triết Hữu Thỉnh. 
Đó cũng là sự lý giải vì sao trường ca “Đường tới thành phố” của nhà thơ Hữu Thỉnh trở thành đỉnh cao trong nền văn học Cách mạng Việt Nam hiện đại.
                              14-9-2017 
                               N.M.K
 


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 208
 Hôm nay: 1629
 Tổng số truy cập: 12949069
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa