Lý Thường Kiệt với đất Ái Châu - Xứ Thanh - Phạm Tấn
Lý Thường Kiệt - một nhân vật lịch sử kiệt xuất của dân tộc Việt Nam hồi thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII chính là người họ Ngô có nguồn gốc xứ Thanh. Theo hệ phả họ Ngô Việt Nam thì ông có tên thật là Ngô Tuấn - con của Ngô An Ngữ (tức Ngô ích Vệ - con thứ của Ngô Xương Xí - người cầm đầu một sứ quân ở Bình Kiều - Thanh Hóa hồi giữa thế kỷ X). Khi Lý Công Uẩn lên làm vua (1010), An Ngữ ra làm một chức quan võ nhỏ “Sung bang lang tướng” và đưa gia đình về sống tại phường Thái Hòa, Thăng Long. Và tại đây ông đã sinh ra Ngô Tuấn (tức Thường Kiệt) vào năm 1019 đời vua Lý Thái Tổ (1010-1028) và sau đó lại sinh ra người em là Thường Hiến.
Như vậy, nếu tính từ vị viễn tổ, Ngô Nhật Đại - người Châu ái ở thế kỷ VIII thời thuộc Đường thì Ngô Tuấn (tức Lý Thường Kiệt) là đời thứ IX của họ Ngô gốc xứ Thanh. Nhưng sinh ra và lớn lên tại Thăng Long, Lý Thường Kiệt đã trở thành người con của kinh thành Thăng Long văn hiến trong Quốc gia Đại Việt. Mặc dù cha mất lúc 13 tuổi (1031) và mẹ mất lúc 18 tuổi (1036), nhưng Lý Thường Kiệt lại được chồng của người cô tên là Tạ Đức động viên, giúp đỡ nên ông đã quyết chí học võ, học chữ và rèn chí để giúp nước, làm vẻ vang cho cha mẹ.
Theo sự ghi chép của phả họ Ngô và văn bia ở đền Ngọ Xá (tức đền Lý Thường Kiệt ở xã Hà Ngọc, Hà Trung, Thanh Hóa nay) do Nhữ Bá Sĩ soạn vào năm Tự Đức thứ 29 (1876) thì trong thời gian còn ở nhà để thờ cha mẹ, Lý Thường Kiệt đã lấy vợ. Bia Ngọ Xá cho biết người chú rể Tạ Đức khuyên ông lấy cháu là Tạ Thuần Khanh. Còn phả họ Ngô Việt Nam thì chép là ông “lấy vợ sớm, 16 tuổi sinh con, không may chết cả mẹ và con. Sau lấy vợ khác, một bà họ Tạ, một bà là Lý Thị Duy Mỹ” (Lịch sử họ Ngô Việt Nam, Hà Nội, 1994, sách lưu hành nội bộ trong họ “Ngô”, do Ngô Đức Thắng biên soạn, tr.11). Về việc Lý Thường Kiệt có lấy vợ hay không cũng còn có những ý kiến khác nhau. Nhưng một chứng cứ mà chúng tôi mới phát hiện đó là hai sắc phong thời Nguyễn cho vị nữ thần được thờ ở Nghè A Đô (nay thuộc làng A Đô, xã Yên Trung, huyện Yên Định, Thanh Hóa) đã chứng minh việc Lý Thường Kiệt có lấy vợ trước khi vào nội đình như bia Ngọ Xá và phả họ Ngô nói là có cơ sở, như:
Sắc 1:
Phiên âm: Sắc Thanh Hóa tỉnh, Yên Định huyện, A Đô xã, Điền thôn tòng tiền phụng sự nguyên tặng: Dực bảo, Trung hưng, Linh phù, Lý Triều Thái Bảo Việt Quốc Công Chính phu nhân Tạ Thị hiệu Thuần Khanh tôn thần. Hộ quốc tí dân nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp tặng sắc chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim chính trực trẫm tứ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân lễ long đăng trật. Trứ gia tặng Trang vị thượng đẳng thần. Đặc chuẩn phụng sự dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển khâm tai.
Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật.
Dịch nghĩa: Sắc cho thôn Điền, xã A Đô, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa theo như lệ trước phụng thờ bà họ Tạ, tên hiệu là Thuần Khanh, là vợ của quan Thái bảo triều Lý, được ban tước Việt Quốc Công (Lý Thường Kiệt) với các mỹ tự Dực Bảo, Trung hưng, Linh phù... Đã có công giúp nước, hộ dân, nỗi niềm nghiệm thấy linh ứng. Gặp các kỳ tiết lễ đội ơn ban cấp sắc phong cho phép phụng thờ. Nay vừa đúng vua 40 tuổi làm lễ khánh tiết vâng mang chiếu báu ân sâu lễ rộng thăng lên một bậc, lại gia tặng thêm mỹ tự: Trang vi thượng đẳng thần. Đặc biệt cho phép phụng thờ, dùng theo lễ quốc khánh mà phương pháp tế tự dõi theo phép điển xưa. Vâng sắc.
Ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định thứ 9 (1925).
Sắc 2:
Phiên âm: Sắc Thanh Hóa tỉnh, Yên Định huyện, A Đô xã, Điền thôn phụng sự Lý triều Thái bảo Việt quốc công Chính phu nhân Tạ Thị Thuần Khanh tôn thần, nẫm trứ linh ứng. Tứ kim phỉ thừa cảnh mệnh diên niệm thần hưu trứ phong vi Dực bảo trung hưng Linh phù tôn thần. Chuẩn kỳ phụng sự thứ cơ thần kỳ tương hựu bảo ngã Lê dân, khâm tai.
Khải Định nhị niên, tam nguyệt, thập bát nhật.
Dịch nghĩa: Sắc cho thôn Điền, xã A Đô, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa phụng thờ Chính phu nhân Tạ Thị Thuần Khanh là vợ của Thái bảo Việt quốc công Lý Thường Kiệt triều nhà Lý, nỗi niềm nghiệm thấy linh ứng. Tới nay vua đội ơn nối trả mệnh sáng đất nước, nhớ về công lao của thần trước đây, gia phong thêm mỹ tự là bậc Dực bảo Trung hưng Linh phù. Cho phép phụng thờ theo từng năm để thần ngầm giúp bảo hộ dân ta. Vâng sắc.
Ngày 18 tháng 3 niên hiệu Khải Định thứ 2 (1918).
Từ hai sắc phong này, cho phép chúng ta khẳng định Tạ Thị Thuần Khanh chính là người cháu mà Tạ Đức đã khuyên Lý Thường Kiệt lấy làm vợ như bia Ngọ Xá đã chép. Và rất có thể bà là người có quê ở A Đô và có công đức với làng nên mới được thờ tại đây. Cũng ở làng A Đô (Yên Trung, Yên Định, Thanh Hóa) lại cũng từng có đền thờ Lý Thường Kiệt mà hiện nay vẫn còn nền móng. Điều đó chứng tỏ, cả hai vợ chồng của Lý Thường Kiệt chắc chắn là có sự gắn bó, kỷ niệm với vùng đất này.
Như vậy, từ một chàng trai khỏe mạnh, tuấn tú đã từng có vợ (và có con như phả họ Ngô chép) và tham gia vào đội kỵ binh để giữ chức kỵ mã hiệu úy, Lý Thường Kiệt lại được vời vào cung, vào ngạch thị vệ để hầu cận vua để trở thành một chức quan hoạn (như bia chùa Linh Xứng và bia Ngọ Xá ở núi Ngưỡng Sơn, Hà Ngọc, Hà Trung đã chép). Và từ đây, phụng sự dưới 3 triều vua Lý: Lý Thái Tông (1028-1054), Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1128), Lý Thường Kiệt đã nhanh chóng được tin dùng và bằng tài năng, đức độ cùng công lao to lớn trên nhiều lĩnh vực, ông đã từng bước leo lên những nấc thang danh vọng cao nhất ở trong triều (chỉ sau vua). Tóm tắt thân thế sự nghiệp lẫy lừng của Lý Thường Kiệt, bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn (nay là xã Hà Ngọc, Hà Trung, Thanh Hóa) dựng vào năm 1126 đã chép: “Lúc quan Thái úy (tức Lý Thường Kiệt) còn trẻ được chọn vào cấm đình, hầu vua Thái Tông, chưa đầy một kỷ, tiếng khen đã nức ở nội đình. Đến khi vua Thánh Tông nối ngôi trị nước, Thái úy hết lòng giúp đỡ. Ra sức siêng năng, nổi bật trong hàng tả hữu, được thăng chức Kiểm hiệu thái bảo. Khi nước Phật Thệ (tức nước Chiêm Thành) khinh nhờn phép tắc, không chịu vào chầu, vương sư rầm rộ tiến đánh. Thái úy thao lược hơn người, vào cung vua mà nhận mưu chước, chế quân luật mà đuổi đánh quân thù. Hoàn Vương không đường chạy trốn, đành tự bó tay mà chịu cắt tai. Bắt được y rồi, Thái úy mới rút quân về. Vua nghĩ công lớn ấy, bèn ban khen và thăng chức”.
Giữa khoảng niên hiệu Thần Vũ (1069-1072) được phong chức Thái úy đồng trung thư môn hạ bình chương sự giúp đỡ việc chính sự của nước nhà, muôn dân được nhờ ơn rất nhiều vậy.
Đầu niên hiệu Thái Ninh (1072-1075), đức Kim thượng Minh Hiếu hoàng đế lên ngôi (tức Lý Nhân Tông), Thái úy lấy tư cách là Y Doãn, Hoắc Quang được nhà vua giao phó nhiếp chính và gửi gắm công việc xã tắc. Bỗng chốc quân biên giới nhà Tống dòm ngó nước ta. Thái úy nắm sẵn mưu chước của triều đình thống lĩnh quân sĩ, diệt ba châu, bốn trại dễ dàng như bẻ cành gỗ mục. Chẳng bao lâu quân giặc ồ ạt kéo đến sông Như Nguyệt, thề trả thù cho ba châu. Thái úy lại cầm quân chống giặc. Thái úy lấy tư cách biện sĩ mà phân tích cho giặc, không vất vả mà bọn đầu sỏ rã rời nhụt chí. Thế là giữ được an ninh cho xã tắc. Vua mến Thái úy dũng cảm nên càng thêm sủng kính. Đầu năm Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084), Thái úy được phong làm em vua, trông nom mọi việc quân ở các châu thuộc trấn Thanh Hóa, quận Cửu Chân, Châu ái và phong cho thái ấp một vạn hộ ở Việt Thường (Thơ văn Lý - Trần, tập I, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr. 361-362).
Tấm bia chùa Báo Ân núi An Hoạch (nay thuộc phường An Hoạch, thành phố Thanh Hóa) dựng năm 1100 cũng có đoạn ca ngợi Lý Thường Kiệt rất súc tích: “Nay có Thái úy Lý Công, giúp vua thứ tư triều Lý (tức Lý Nhân Tông), được trao chức: Suy thành, hiệp mưu, bảo tiết thủ chính, tá lý, dực đới công thần, thủ thượng thư lệnh, khai phủ khâm đồng tam ty, nhập nội nội thị sảnh đô đô tri, kiểm hiệu thái úy, kiêm ngự sử đại phu, dao thu chư trấn tiết độ sứ, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, khai quốc thượng tướng quân, Việt quốc công, thực ấp một vạn hộ, thực thực phong bốn ngàn hộ. Ông đứng trước tiết lớn, vâng mệnh phù nguy, là người có thể gửi gắm đứa con côi, ủy thác mệnh lệnh ngoài trăm dặm. Rồi ông thề trước ba quân: phía Bắc đánh quân Tống xâm lược, phía Tây đánh bọn không lai chầu, giỏi thắng địch bằng sách lược bảy lần bắt, bảy lần đều thả. Đâu phải riêng nhà Hán có công huân Hàn, Bành, nước Tề có sự nghiệp của Quản, án. Riêng ông giúp vua thì nước nhà giàu thịnh nhiều năm. Đó chính là công tích rực rỡ của đạo làm tôi có thể để lại nghìn đời sau vậy.
Đến năm Nhâm Tuất (1082), nhà vua đặc biệt ban thêm một quận Thanh Hóa cho ông làm phong ấp, châu mục đều ngưỡng mộ phong thanh, muôn dân đều mến đức chính” (Thơ văn Lý - Trần, S.đ.d, tr. 309).
Thế là sau hơn bốn chục năm ở triều đình nhà Lý để giúp vua bình Chiêm, phá Tống và điều hành chính sự cho quốc gia được yên ổn, đến năm 1082, Lý Thường Kiệt lại được biệt phái vào cai quản trấn Thanh Hóa để bảo vệ vùng đất phên dậu quan trọng ở phía nam của Tổ quốc. Lúc này ông đã 63 tuổi. Theo các tài liệu sử sách mà chúng ta biết được thì Thái úy Lý Thường Kiệt có 19 năm làm tổng trấn Thanh Hóa (tức là từ 1082 đến 1101). Trong 19 năm ấy, với quyền lực tối cao và mang danh là Thiên tử nghĩa đệ, Lý Thường Kiệt được hoàn toàn quyết định mọi việc ở trong trấn. Nhưng vì là một trung quân sáng suốt, khoan hòa và đức độ cho nên ông luôn là người mang lại lợi ích cho dân ở trấn mình cai quản. Vị đại sư Hải Chiếu Pháp bảo - một người làm việc dưới quyền ông trong những năm làm tổng trấn Thanh Hóa đã từng chứng kiến tận mắt những việc ông làm cho nên mới có những lời ngợi ca cụ thể hết lời trong bia Linh Xứng như: “Thái úy trong thì sáng suốt khoan hòa, ngoài thì nhân từ giản dị. Những việc đổi dời phong tục, nào có quản công. Làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ quần chúng, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Dùng oai vũ để trừ bọn gian ác, đem minh chính để giải quyết ngục tụng, cho nên hình ngục không quá lạm. Thái úy biết dân lấy ấm no làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang, nuôi dưỡng cả đến người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ đó mà được an thân. Phép tắc như vậy có thể gọi là cái gốc trị nước, cái thuật yên dân, sự đẹp tốt đều ở đây cả. Giúp chính sự cho ba triều, dẹp yên loạn biên ải, chỉ khoảng vài năm mà tám phương yên lặng, công thật to lớn” (Thơ văn Lý - Trần, tập I, S.đ.d. 362).
Sự làm việc công minh, rạch ròi cho dân của ông còn được bia chùa Hương Nghiêm núi Càn Ni (nay thuộc làng Phủ Lý, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa) dựng vào năm 1124 ghi chép một cách rất cụ thể như sau: “Năm Tân Mùi (1091), có hai chàng phó ký lang họ Thiền và họ Tô tâu xin lại khoảnh ruộng đất của tiên tổ là quan Bộc Xạ (tức hào trưởng Lê Lương hồi thế kỷ X)... Do đó mùa thu năm ấy, Thái úy Lý Công đến tận nơi cho chuộc ruộng đất, lập bia đá và chia ruộng cho hai giáp. Rồi ông lại tới đầm A Lôi, chia một nửa đầm cho giáp Bối Lý, một nửa đầm cho giáp Viên Đàm. Thái úy còn truyền bảo lần nữa cho hai giáp biết, không được lấy một lá lau, một ngọn cỏ ở hai bên bờ đầm. Ngay lúc đó lại ra lệnh giao về cho dòng dõi nhà họ Lê” (Thơ văn Lý - Trần, tập I, S.đ.d. 126).
Trong thời gian làm tổng trấn Thanh Hóa, ngoài sự chú trọng đến việc nông trang, cày bừa, cấy hái làm sao cho không bị mất mùa, Lý Thường Kiệt còn rất chăm lo đến việc đào kênh dẫn nước và mở mang thêm nhiều làng xóm, ruộng đồng. Truyền thuyết ở làng A Đô (nay thuộc xã Yên Trung, Yên Định) đã nói về việc Lý Thường Kiệt là người trực tiếp chỉ huy việc đào vét kênh nhà Lê (tức kênh đào thời Tiền Lê, thế kỷ X, mà sử sách chép là kênh Đồng Cổ) để nối sông Mã với sông Lương qua địa bàn này và chính ông là người cho lập ra trang A Đô. Vì vậy mà ở đây mới có đền thờ ông và phu nhân là bà Tạ Thuần Khanh như ở trên đã nói.
Qua sự ghi chép của bia chùa Báo Ân núi An Hoạch (nay thuộc phường An Hoạch, thành phố Thanh Hóa) dựng năm 1100, chúng ta được biết Lý Thường Kiệt có thể là người đầu tiên mang lại nghề đục đá cho dân làng Nhồi. Tấm bia đó nói rất rõ ràng rằng: “ở phía tây nam huyện, có một quả núi lớn và cao gọi là núi An Hoạch, sản xuất nhiều đá đẹp, đó là sản vật quý giá của mọi người. Sắc óng ánh như ngọc lam, chất biếc xanh như khói nhạt. Sau này đục đá làm khí cụ, ví như đẽo thành khánh, đánh lên thì tiếng ngân muôn dặm; dùng làm bia, văn chương để lại thì còn mãi nghìn đời. Thế là Thái úy Lý Công sai một thị giả là Giáp thủ Vũ Thừa Thao xuất lĩnh người hương Cửu Chân, dò núi tìm đá trong mười chín năm” (Thơ văn Lý - Trần, tập I, S.đ.d. 309).
Theo chúng tôi thì việc Thái úy Lý Thường Kiệt sai Giáp thủ Vũ Thừa Thao xuất lĩnh người hương Cửu Chân, dò núi tìm đá trong mười chín năm (tức mười chín năm Lý Thường Kiệt làm tổng trấn Thanh Hóa, từ 1082-1101) chính là việc cho đi tìm những thợ đục đá lành nghề, mà rất có thể đó là những người Việt gốc Chăm (gồm những tù binh mà thời bình Chiêm của Lê Hoàn ở thế kỷ X và của Lý Thái Tông cùng Lý Thường Kiệt mang về (năm 1065) để khai khẩn đất hoang, lập ra các trang ấp ở Thanh Hóa và nhiều nơi trong nước). Sở dĩ có nhận định như vậy vì ở làng Nhồi hiện nay vẫn có một nhóm cư dân khá đông mang tên họ Lôi, tức họ Lồi gốc Chăm Pa.
Cũng theo sự ghi chép của bia chùa Báo Ân núi An Hoạch, chúng ta biết tất cả những nghĩa cử cho dân của Lý Thường Kiệt trong suốt 19 năm làm tổng trấn Thanh Hóa đã làm cho các “châu mục đều ngưỡng mộ” và “muôn dân đều mến đức chính” (lời văn bia). Để tỏ lòng biết ơn trời, phật, vua và công đức của Lý Thường Kiệt mà nhân dân xứ Thanh đã tự chọn đất và góp công, góp của để xây dựng ở khu vực núi An Hoạch (tức núi Nhồi) một ngôi chùa với một cái tên đầy ý nghĩa - đó là chùa Báo Ân.
Rất tiếc là sử sách cổ của nước ta (như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư...) đều không chép một cách cụ thể, rõ ràng về hành trạng của Lý Thường Kiệt trong 19 năm cai quản trấn Thanh Hóa, nhưng rất may là nhờ các tấm bia thời Lý còn lại (như bia chùa Báo Ân dựng năm 1100, bia chùa Hương Nghiêm núi Càn Ni dựng năm 1124, bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn dựng năm 1126) và tấm bia đền Ngọ Xá (tức đền Lý Thường Kiệt) dựng vào năm Tự Đức thứ 29 (1876) do Nhữ Bá Sĩ soạn dựa trên cơ sở tham khảo, sưu tầm các tài liệu sử Việt, sử Tống và truyền thuyết dân gian, chúng ta không những biết được khá đầy đủ về thân thế sự nghiệp của Lý Thường Kiệt nói chung, mà còn biết được khá kỹ về công lao to lớn của ông đối với xứ Thanh.
Cũng từ những bia ký đã nêu và đối chiếu với các tài liệu sử sách có liên quan, chúng ta thấy Lý Thường Kiệt trong thời gian trấn trị ở Thanh Hóa (1082-1101), ngoài việc làm cho vùng đất phên dậu của đất nước được yên ổn, vững mạnh, ông còn có công rất lớn trong việc phát triển chùa chiền và làm cho đạo Phật ở đây hưng thịnh hơn bao giờ hết. Như lời Hải Chiếu đại sư nói trong bia Linh Xứng thì ông “Tuy thân vướng việc đời, mà lòng vẫn hướng về đạo Phật”. Và chính vì có tấm lòng và tư tưởng hướng Phật ấy mà đã thôi thúc ông chuyên làm những điều thiện đối với dân, với nước.
Về việc phát triển Phật giáo, trong thời gian chưa làm tổng trấn Thanh Hóa, Lý Thường Kiệt đã giúp sư Đạo Dung sửa chữa lại chùa Hương Nghiêm ở giáp Bối Lý (nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa) theo lời thỉnh cầu của Thái Phó Lưu Công (tức Lưu Khánh Đàm - vị quan đồng triều với Lý Thường Kiệt, người Ngũ huyện giang - Cửu Chân) vào năm 1077 (tức là năm Lý Thường Kiệt vẫn còn ở Thăng Long).
Còn trong thời gian làm tổng trấn ở Thanh Hóa (1082-1101), Lý Thường Kiệt chính là người trực tiếp xây dựng chùa Linh Xứng ở núi Ngưỡng Sơn (thuộc làng Ngọ Xá, nay là xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung). Vì vậy dân địa phương còn gọi tên là chùa Lý Thái úy (tức chùa Lý Thường Kiệt). Bia chùa Linh Xứng soạn lúc Lý Thường Kiệt đang còn ở Thanh Hóa, nhưng mãi 21 năm sau khi ông mất mới dựng. Đó là năm 1126 (tức là năm Thiên phù duệ vũ thứ bảy Bính Ngọ). Bia này đã chép khá tường tận quá trình tìm đất và xây dựng chùa Linh Xứng như sau:
“Nhân lúc rảnh việc triều chính, ông thầy của Thái hậu (tức phu nhân ỷ Lan) là Trưởng lão Sùng Tín bỗng từ kinh sư đến quận này, mở mang giáo hóa, khơi thông mọi tập tục khác lạ, răn điều ác, chỉ điều thiện, khác nào một trận mưa rào thấm nhuần cây cỏ, không ai là không hớn hở vui tươi. Thế là Thái úy cùng Trưởng lão ngược dòng lên cửa Phấn Đại, dừng thuyền ở núi Long Tỵ (tức núi Hàm Rồng, đối diện với núi Ngọc hiện nay). Xem đá trắng mà ngọc châu lấp lánh, dòm thác nguồn mà xiêm áo lung linh. Do đó Thái úy khuyên dựng đoản đình ở ngay chân núi, xây tường lớn ở chốn non cao. Trưởng lão hỏi rằng:
- Núi này đẹp nhưng đã mở mang mất rồi, còn có nơi nào thanh u, nổi tiếng đẹp đẽ hơn, mà xưa kia đã từng nghe nói, thì xin hãy dẫn đi.
Thái úy trả lời:
- Trưởng lão thực là một người có thể thực hành được đạo Phật, thỏa được tính sáng, mở được lòng mê, bằng cách tùy theo cái căn tính lanh lợi hay ngu đần mà chỉ cho phép “đốn” hay phép “tiệm”.
Rồi đó, Thái úy lại dẫn những người tùy tùng, dời thuyền đi về phía tây, qua dòng sông trong Nam Thạc (tức sông Lèn), đến ấp nổi Đại Lý (nay thuộc xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung). Dạo bước bến đò, đưa mắt xem xét, thấp thoáng thấy ở trong quận, cách quận lỵ (chỗ Văn Lộc, huyện Hậu Lộc bây giờ) chừng năm dặm có hòn núi trơ vơ gọi là Ngưỡng Sơn. Chân núi quanh co bên bờ nước, đâu phải núi đồi dĩ hỗ, lại không vách đứng tường cao. Bóng lan ngùn ngụt, sắc thúy đậm đà, quanh quất làng xa, bao quanh điện Bắc. Gò ao khắp núi, hình thế lạ kỳ. Trước đây có một ẩn sĩ riêng xây am trong ấy và đi duyên hóa mọi phương, tuy đã mở mang, nhưng tịnh giới chưa được nghiêm ngặt. Thái úy lại dẫn bộ thuộc theo lối tắt trèo lên, chỉ thấy cây cỏ rợp trời, ráng mây vương vất. Thái úy bồi hồi dạo bước, trên dưới ngắm trông. Thế là vì tấm lòng ưa thích sự vui vẻ, thương xót quần sinh mà ý nghĩ kinh doanh trỗi dậy. Thái úy bèn bảo rằng:
- Cái mà kẻ sĩ người nhân ưa thích là núi, là sông; cái mà thế đại lưu truyền là danh, là đạo. Nếu mở núi mà làm cho “đạo” và “danh” rạng rỡ thì không đáng quý hay sao.
Thế là phát cỏ rậm, bạt đá to, thầy bói nhằm phương, thợ hay dáng kiểu; quan thuộc góp tiền, sĩ dân đổ tới. Kém sức thì bào, thì gọt; sành nghề thì dựng thì xây. Chùa Phật thênh thang ở giữa; phòng chay rộng rãi hai bên. Trang nghiêm chính giữa thì Ngũ tri Như lai sắc vàng rực rỡ, ngồi trên tòa sen trồi lên mặt nước. Quanh tường thì thêu vẽ dung nghi đẹp đẽ của cực quả mười phương cùng với mọi hình tướng biến hóa, muôn hình vạn tượng, không thể kể xiết. Phía sau xây ngôi tháp báu gọi là tháp Chiêu Ân, chín tầng chót vót, giăng mắc rèm the, cửa mở bốn bên, bao quanh con tiện. Gió rung chuông bạc; hòa nhịp chim rừng. Tháp báu nắng soi; long lanh vàng diệp. Quanh thềm lan can; đầy sân hoa cỏ. Trước cửa chính, trong treo chuông vàng, một tiếng chày kinh, ngân vang khắp chốn. Thức tỉnh u mê; phá tan niềm hôn tục. Khuyên bảo việc lành, răn điều ác. Thẳng ngay phía trước một đường hai ngả, khởi mương và dẫn nước chảy xuôi. Bên dòng nước dựng xây đình nhỏ, san sát thuyền bè qua lại, dừng chèo tạm nghỉ. Hoặc Hoàn Bang, Chân Lạp xa tới mà quỳ gối ngắm xem; hoặc nước lạ phương xa qui phục mà cúi đầu dập trán. Cái nhà nát của kẻ trưởng giả quê mùa mà hóa thành vương xá lớn” (Thơ văn Lý - Trần, tập I, S.đ.d. 362-363).
Như vậy, qua đoạn văn bia vừa dẫn, chúng ta có thể hình dung được quy mô bề thế của chùa Linh Xứng - một trung tâm Phật giáo lớn của xứ Thanh thời Lý được xây dựng ở ngọn núi sát kề sông Đại Lại (tức sông Lèn, nhánh sông Mã, còn gọi là sông Lèn, hay sông Nga...) - Con đường thủy quan trọng trong nghìn năm phong kiến. Từ phía nam tới, thuyền ghe qua sông Mã, sông Lèn, qua chùa Linh Xứng rồi vào sông Hoạt, sông Tống và kênh nhà Tiền Lê để đến cửa Thần Phù và ra Thăng Long. Vì vậy, mà từ Tiền Lê và Lý trở đi, mỗi lần ra Bắc để cống nạp cho Đại Việt, các nước nhỏ khác ở phương Nam đều phải đi qua đây, như văn bia nói là đều phải “quỳ gối ngắm xem” hoặc “cúi đầu dập trán” trước ngôi chùa Linh Xứng nổi tiếng khắp miền gần, xa vậy.
Cũng theo văn bia chùa Linh Xứng cho biết thì Lý Thường Kiệt có người cháu là tín nữ Diệu Tính kết hôn với xử sĩ Sùng Chân (tên húy là Trai) sinh được con trai đầu lòng, theo học đạo nho (tên húy là Hai, tên chữ là Tổ Bành) và hai con trai thứ theo học đạo Phật (một người gọi là sư Viên Giác, pháp hiệu là Pháp Trí, một người gọi là sư Minh Ngộ, pháp hiệu là Pháp Ân). Đầu niên hiệu Thần Vũ (1069-1072), họ vâng chiếu nhà vua, rút họ tên ra khỏi công điền, rồi mở mang trang viên ở núi Ngưỡng Sơn để trụ trì tại chùa Linh Xứng. Sau đó, ba người con của Diệu Tính và Sùng Chân còn nhằm phía đông núi để dựng riêng một ngôi chùa, gọi là chùa Thánh Ân, trong đặt phật vàng và các vị bồ tát ở hai bên, trải qua bốn năm thì công việc hoàn thành.
Rõ ràng, qua việc xây dựng chùa Linh Xứng, Lý Thường Kiệt muốn chứng tỏ cho các nước lân bang ở phía Nam phải kính phục trước một công trình kiến trúc Phật giáo nguy nga, bề thế ở vùng đất phên dậu phía nam của Đại Việt.
Có thể nói, dấu ấn của Lý Thường Kiệt - nhân vật lịch sử kiệt xuất, vĩ đại của dân tộc trong 19 năm ở trấn Thanh Hóa quả là rất đậm nét. Trong 19 năm ấy (1082-1101), với sự có mặt của Lý Thường Kiệt, sự giao thoa văn hóa giữa Thăng Long kinh kỳ với xứ Thanh phên dậu càng có điều kiện để phát triển một cách thuận lợi. Với những tài liệu sử sách và bia ký còn lại, chúng ta cũng được biết nhiều nhân vật tên tuổi như thái phó Lưu Khánh Đàm và các vị đại sư như Sùng Tín, Đạo Dung và nhiều người khác đã mang sắc thái văn hóa Thăng Long vào xứ Thanh và giúp Lý Thường Kiệt mở mang khai trí những vùng đất còn “mộc mạc”, “thuần phác” thành những nơi rực rỡ đền đài, chùa phật, v.v... Và ngược lại, khi Lý Thường Kiệt trở về triều (1102), ông lại tuyển chọn nhiều nhân tài xứ Thanh ra Thăng Long để phục vụ triều đình.
Sau khi rời xứ Thanh chỉ vài năm, đến năm 1105, vị anh hùng kiệt xuất Lý Thường Kiệt qua đời, thọ 86 tuổi.
Ngay sau khi ông qua đời, mảnh đất mà lúc sinh thời ông tự chọn để làm Thọ thân đường ở ngay núi Ngưỡng Sơn (nơi kề giáp với chỗ ngôi chùa Linh Xứng mà ông xây dựng) đã trở thành một ngôi đền quốc tế để thờ ông mãi mãi. Và cho đến hôm nay, nơi đền thiêng vẫn khói hương nghi ngút. Đã qua rồi gần mười thế kỷ, nhưng hình ảnh và công lao của Lý Thường Kiệt vẫn còn sống mãi trong tâm thức, tình cảm của người dân xứ Thanh. Núi Ngưỡng Sơn, chùa Linh Xứng và đền Lý Thường Kiệt - nơi đã từng có sự giao thoa điển hình giữa văn hóa Thăng Long với văn hóa xứ Thanh hồi thế kỷ XI chính là một quần thể di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật rất có giá trị đã được Nhà nước xếp hạng. Rồi đây, với sự hỗ trợ thiết thực của Nhà nước cùng sự cố gắng nỗ lực của Thanh Hóa, khu di tích thắng cảnh này chắc chắn sẽ được phục dựng lại như xưa để tỏ lòng tri ân thành kính đối với anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt.
P.T