Chuyện về một đảng viên đi trước (Bút ký) - Lê Ngọc Minh
1. Gặp những người làm kinh tế giỏi ở trạm quản lý rừng phòng hộ Ngọc An, xã Ngọc Trạo (Thạch Thành), bà con đều nói, muốn tìm hiểu toàn diện hơn, kỹ lưỡng hơn về công việc bảo vệ rừng phòng hộ trong vùng thì nên gặp vị giám đốc của họ là ông Phạm Văn Hồ. Ông Thạch Văn Tuân, trưởng trạm còn nói thêm: “Anh Phạm Văn Hồ thuộc rừng phòng hộ của ban chúng tôi như thuộc lòng bàn tay”. Ban mà ông Tuấn nói là Ban Quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành, có tiền thân là Lâm trường quốc doanh Thạch Thành, hiện đang quản lý hơn 7000 ha rừng phòng hộ tại địa bàn sáu huyện miền núi Thanh Hóa, gồm: Thạch Thành, Hà Trung, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc, Vĩnh Lộc, Bá Thước với hai mươi bốn xã và bốn trăm hộ nhận khoán.
2. Sau khi rời trạm phòng hộ rừng Ngọc An vào lúc quá trưa, chúng tôi phải chờ đến bốn giờ chiều, khi kết thúc công việc bận rộn ở trường Chính trị huyện, chị Quách Thị Tươi, trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy kiêm Giám đốc trường mới có thì giờ đưa chúng tôi đến gặp ông Phạm Văn Hồ, giám đốc kiêm bí thư Đảng ủy Ban Quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành tại tư gia của ông nằm sâu trong địa bàn xã Thành Vân, cách trung tâm huyện, thị trấn Kim Tân khoảng mười ba ki lô mét.
Cũng vừa từ cơ quan về trước đó ít phút, ông Phạm Văn Hồ xởi lởi ân cần đón khách. Thấy tôi đeo máy ảnh, chân trời phía tây nam lại đang nổi mây đen báo hiệu sẽ có trận mưa lớn, chủ nhà dẫn liền chúng tôi ra vườn cây thanh long ruột đỏ đang cho thu hoạch và vườn cây mắc ca trồng xen với dứa thơm, trái sai trĩu trịt để tranh thủ “ghi hình”...
Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng hình dung được đây là một cơ ngơi của người biết làm ăn trong thời đại công nghệ 4.0. Các thửa vườn rộng rãi trồng cây ăn quả chất lượng cao được quy hoạch mạch lạc như những ô bàn cờ khổng lồ với hệ thống tưới tiêu, chống nóng, giữ ẩm khá hiện đại theo tiêu chuẩn sạch. Và cái chính là ở thửa nào cũng nhìn thấy hoa lợi ngời màu sung mãn trên từng cành nhánh của vườn cây.
3. Sinh năm 1962, song ông Phạm Văn Hồ đã là một đảng viên có 36 tuổi Đảng. Nhớ lại ngày đầu khi rời ghế nhà trường vào bộ đội ở một đơn vị đặc công thuộc trung đoàn 785, trấn giữ ở vùng nam Thanh, bắc Nghệ, chàng thanh niên Phạm Văn Hồ quyết tâm phấn đấu rèn luyện để được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Và vinh dự đó đã đến khi anh ở tuổi 21. Là một hạ sỹ quan, một đảng viên trẻ năng nổ, sức khỏe tốt, trung sỹ Phạm Văn Hồ được cấp trên tạo điều kiện cho đi học trường sỹ quan 400 ở Sơn Tây nhưng do hoàn cảnh gia đình rất khó khăn cha già mẹ yếu, đơn người nên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, anh xin xuất ngũ về quê và “đầu quân” cho đội bảo vệ lâm trường Thạch Thành.
Ông Phạm Văn Hồ nhớ lại, công tác bảo vệ rừng những năm đó vô cùng gian nan vất vả và bị nguy hiểm rủi ro từng ngày, bởi thế, ban giám đốc lâm trường đã bố trí một đội bảo vệ hầu hết là anh em bộ đội chuyển ngành đã qua huấn luyện, chiến đấu, là đảng viên trẻ, có sức khỏe, nhanh trí và chấp nhận gian khổ, hy sinh. Thế nhưng vẫn không thể nào bảo vệ được rừng trước nạn lâm tặc hoành hành. Đặc biệt, các năm 1987, 1988, 1989 là những năm mất mùa đói kém, tính bình quân mỗi ngày lâm trường mất gọn một ngọn đồi. Đội bảo vệ có hơn mười người, căng quân ra như chão và luôn bị tai họa rình rập. Bản thân anh Hồ cũng bị chém hai nhát chí mạng sâu 10 phân, chỉ cách cột sống và bàng quang có một xăng ti mét. Những ngày nằm viện điều trị vết thương, bảo vệ Phạm Văn Hồ suy nghĩ rất nhiều, tại sao lâm tặc lại nhiều đến thế và khó chế ngự đến thế? Có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính là vì dân đói quá, hóa cố cùng thôi! Lâm tặc, nhìn lại thì phần đông là bà con trong vùng, là người dân tộc thiểu số, là cựu công nhân lâm trường, là người nghèo ngoài phố Cát và các làng bản lân cận. “Đói ăn vụng, túng làm càn!”. Kẻ chém anh hai nhát dao chí mạng cũng là người dân tộc thiểu số, con một gia đình có bố là bộ đội chống Mỹ. Bởi thế, nếu chỉ tập trung đối phó cứng với đám phá rừng này là không thể mà phải kết hợp nhiều biện pháp. Trong đó biện pháp hàng đầu là làm sao để dân không còn bị đói. Muốn thế, cần biến đất đai thành hoa lợi, giải tỏa tình thế đói nghèo và đi đến mục tiêu ấm no bền vững cho cuộc sống của người dân trong vùng.
Hàng ngày đi gác rừng, bảo vệ trẻ Phạm Văn Hồ thấy giữa các ngọn đồi là những thung lũng bằng phẳng, đất đai khá mầu mỡ. Tại sao lại để cho cỏ tranh và sim, mua mọc hoang? Cách nghĩ của Phạm Văn Hồ may sao gặp đúng lúc ban giám đốc Lâm trường Thạch Thành chủ trương khoán rừng đến hộ như là một giải pháp đột phá để phát huy sức dân, bảo vệ rừng, sản xuất ra hoa lợi, cải thiện và nâng cao đời sống. Gia đình đảng viên trẻ Phạm Văn Hồ là hộ đầu tiên nhận khoán chín quả đồi với diện tích ba mươi ha. Kể đến đó, giọng ông giám đốc, bí thư Đảng ủy Phạm Văn Hồ trầm xuống như hồi cố về một thời quá khứ đầy khó khăn, khắc nghiệt chưa xa mấy nỗi: “Đêm đầu tiên vợ chồng tôi và hai con nhỏ ở rừng là một đêm mưa ngâu oi bức. Có một ngọn đèn dầu thì phải để ở hiên lều nhằm hút hết muỗi và các loại côn trùng về phía đó, tuy nhiên tôi không thấy hoang mang vì nhìn hai con nhỏ ngủ ngon lành, còn bà vợ thì thủ thỉ công việc làm ăn cho ngày hôm sau và những ngày tới với những toan tính, hy vọng đổi đời. Ai bảo thời nay không còn một túp lều tranh hai trái tim vàng?”. Nói vậy nhưng cuộc sống ở rừng ngày đó thật vô vàn vất vả, gian truân, đơn lẻ. Láng giềng gần nhất ở phía đông của chúng tôi là một gia đình Việt kiều ở Thái Lan về nước đầu những năm 1960, cách khoảng một cây số rưỡi; còn láng giềng phía tây là vài gia đình dân tộc Mường, cách xa hơn ba cây số. Nhớ lại những ngày con nhỏ bị rết cắn, rắn cắn phải vác con chạy vào vùng bà con dân tộc nhờ hái lá cứu chữa trong đêm; nhớ ngày bị sốt rét mệt lử cò bợ, cố trụ lại nhà hai mươi ngày trước khi nhập viện... giờ hãy còn gai người.
“Người là hoa của đất!”, các cụ dạy không hề sai! Hàng ngày, sáng ra, cứ thấy chín ngọn đồi xanh dần lên, lâm tặc bớt dần đi, rồi vắng hẳn, bụng dạ thấy vui, chân tay thấy muốn làm việc, đầu óc muốn nghĩ ngợi, tính toán về lâu về dài. Hai cặp bò mua ngày vừa vào rừng đã dần dà hình thành một đàn bò hơn mười con, con nào con ấy béo nây; tối tối xong công việc, vừa đi gác rừng, vừa đặt ống lươn, sáng ra đi đổ ống, không những có thức ăn tươi đủ trong ngày mà còn dư hàng mấy ki lô để bán, gom góp đủ tiền mua được xe đạp tốt cho cả chồng lẫn vợ. Đến năm 1996 thì vợ chồng tôi có tiền làm được nhà kiên cố với kinh phí năm mươi triệu đồng, một ngôi nhà được coi là hoành tráng dưới thung lũng rừng phòng hộ lúc bấy giờ”...
Bóc một túi nhựa ép chân không đựng nhân hạt mắc ca, sản phẩm từ vườn nhà mới liên doanh với một công ty xuất khẩu ẩm thực chất lượng cao sản xuất, giám đốc Phạm Đình Hồ kể tiếp, việc vô rừng nhận khoán hộ thành công của gia đình ông đã có tác động rất lớn đến công tác khoán rừng cho từng hộ của cả lâm trường. Các hộ đến tham quan cơ ngơi của người đi đầu, hỏi han kinh nghiệm rồi tin tưởng nhận rừng và sáng tạo ra nhiều cách trồng cây, nuôi con thế nào cho hiệu quả và cập nhật với thị trường tiêu thụ. Thậm chí, một số công nhân cũ, trong thời khó khăn nhất của lâm trường đã bỏ việc, hoặc xin về hưu non, về “một cục”, lúc bấy giờ đã lũ lượt trở lại lâm trường đòi “xét lại” quyền lợi, gây ra không ít khiếu kiện, oán trách. Bằng thực tế của mình, đội trưởng, đảng viên Phạm Văn Hồ đã tham mưu cho ban giám đốc vận động các gia đình đã nhận khoán hộ ổn định nhường một phần rừng cho các đồng nghiệp ngũ, người một mẫu, người năm ba sào. Bản thân anh cũng san sẻ cùng hai hộ khác. Thế là không khí lại ấm êm, tranh đua lành mạnh. Vừa thể hiện được tình hữu ái vốn là bản chất của giai cấp công nhân, vừa là tình cảm bầu bí thương nhau, lá lành đùm lá rách theo truyền thống đạo lý nhân ái bao dung của người Việt Nam.
4. Thức khuya dậy sớm với hàng chục mẫu đất rừng nhận khoán, Phạm Văn Hồ càng lúc càng thấy rằng, muốn làm ăn hiệu quả, ngoài cần cù, siêng năng, tính toán trù liệu, còn phải cập nhật được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Thế nên, vào năm 2001, khi đã 39 tuổi, đảng viên Phạm Văn Hồ nộp đơn, xin thi đại học và đỗ vào trường đại học Lâm nghiệp ở Chương Mỹ, Hà Tây cũ.
Đi học xa là một thử thách mới của Phạm Văn Hồ. Lâm trường chỉ đồng ý cho anh đi học, còn lại, từ thời gian, nhiệm vụ của một đội trưởng bảo vệ rừng đến kinh phí học tập đi lại, anh đều phải tự chủ. Các thầy ở đại học Lâm nghiệp biết hoàn cảnh của sinh viên Phạm Văn Hồ nên đã bố trí cho anh lịch học mỗi tháng mười ngày liên tục. ở đơn vị bảo vệ của lâm trường, anh em đồng đội, đồng nghiệp cáng đáng công việc cho anh thời gian đi học vắng. Sau kỳ học xong kỳ mười ngày hàng tháng, anh về đội đảm nhiệm hai mươi ngày còn lại và nhận thêm nhiều suất gác đêm. Tính ra, đội trưởng Phạm Văn Hồ vẫn đảm bảo đủ ngày công của một đội trưởng bảo vệ lâm trường trong suốt bốn năm anh đi làm sinh viên đại học...
Kể đến đây giám đốc Phạm Văn Hồ nói vui: “Kinh phí cho bốn năm học hết sáu con bò, anh em bạn bè đùa vui, gọi tôi là kỹ sư “sáu bò”! Còn bản thân khi nhận được tấm bằng kỹ sư lâm nghiệp, tôi đặt vào tay bà vợ và nói: “Công em!”. Rồi hai vợ chồng lặng đi cùng nhớ lại những ngày vợ chồng chở nhau bằng xe đạp xuống tận Quốc lộ 1A để tôi đón xe khách, hoặc đến ga Bỉm Sơn để đi tàu ra Chương Mỹ, Hà Tây học; nhớ những ngày nước lụt ngập ngang mặt đê sông Bưởi, tôi vừa từ trường về, bà ấy gói vội cho chồng một bọc xôi nóng kèm muối lạc để có cái ăn trong đêm gác rừng, trời mưa”.
5. Vào năm 2010, Lâm trường Thạch Thành được chuyển đổi chức năng nhiệm vụ thành Ban Quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành, kỹ sư Phạm Văn Hồ được bổ nhiệm làm giám đốc ban này, và ông được đại hội Đảng bộ của ban bầu làm bí thư Đảng ủy. Đảng bộ Ban Quản lý có 68 đảng viên sinh hoạt ở sáu chi bộ, trải rộng trên sáu đơn vị bảo vệ rừng phòng hộ thuộc các huyện: Thạch Thành, Cẩm Thủy, Bá Thước, Ngọc Lặc, Vĩnh Lộc, Hà Trung.
Từ bấy đến nay, Ban Quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành luôn là đơn vị dẫn đầu trong ngành lâm nghiệp cả nước. Nói về công tác xây dựng Đảng với tư cách là một bí thư Đảng bộ cấp cơ sở, ông Phạm Văn Hồ vẫn luôn luôn tâm đắc với chuẩn mực “Đảng viên đi trước” như bản chất gương mẫu và cách mạng của người Cộng sản. Nhưng “Đảng viên đi trước” trong thực tiễn hôm nay là đi trước với một tư duy luôn luôn đổi mới, luôn luôn nâng cao nhận thức để bắt kịp với những thành tựu của khoa học công nghệ, với những mặt tích cực của kinh tế thị trường. Theo đó, đảng viên phải là người gương mẫu đi đầu trong phong trào làm giầu chính đáng, phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Muốn thế người đảng viên và tổ chức Đảng nơi sinh hoạt phải là tấm gương đầu tàu trong lối sống, trong cách ứng xử, có trách nhiệm cao với người thân, với đồng chí, với bà con trong cộng đồng cơ quan, xã phường, thôn bản; đầu tàu trong tư duy dám nghĩ dám làm. Bí thư Đảng ủy Phạm Đình Hồ tâm đắc bộc bạch: “Bác Hồ nói: “Đảng ta là đạo đức là văn minh” thì đạo đức ở đây là mỗi đảng viên phải nêu gương, phải dấn thân trước những khó khăn thử thách, là phải đi trước về sau; văn minh ở đây là phải suy nghĩ và hành động với một tư duy mạch lạc, tiên tiến, có hiệu quả, luôn luôn học hỏi nâng cao trình độ nhận thức để nắm bắt, để dự đoán chính xác cái mới sẽ nẩy nở như cơ duyên, cơ hội và cả những rủi ro cần khắc phục có thể xảy ra phía trước nhằm đạt được mục tiêu gia đình, cộng đồng ngày một ấm no hạnh phúc, phồn thịnh; ai cũng có cơ hội đóng góp trí lực và tình cảm của mình cho mục đích bình dị mà cao cả ấy. Do vậy trong mỗi cuộc sinh hoạt thường kỳ, từng chi bộ cần có nội dung phong phú, vừa phổ biến đầy đủ, kịp thời các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, vừa căn cứ vào tình hình thực tế trong chi bộ mà có nội dung phù hợp. Sinh hoạt Đảng ở các chi bộ trong Đảng bộ Ban Quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành đã trở thành những cuộc họp có thêm nội dung mạn đàm trao đổi kinh nghiệm làm ăn, nuôi dạy con cháu trong gia đình, tương thân tương ái trong cộng đồng. Một số đảng viên về hưu vẫn muốn được tiếp tục sinh hoạt tại chi bộ mà họ đã gắn bó, trưởng thành. Trong phong trào Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đặc biệt là đợt hưởng ứng Cuộc thi “Học tập Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” do Huyện ủy Thạch Thành phát động, 10 bộ câu hỏi gồm 90 câu chi tiết về thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với những lời dạy của Người là những nội dung quí báu có giá trị giáo dục lòng yêu nước, tình cảm cách mạng, và lòng kính yêu lãnh tụ đã đến với từng cán bộ đảng viên, đoàn viên và đông đảo nhân dân các dân tộc hai mươi bốn xã trong sáu huyện có rừng phòng hộ do Ban Quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành phụ trách...
Công tác phát triển Đảng được đặc biệt quan tâm vì đây là sức sống trường tồn của Đảng. Trong chín năm đảm nhiệm bí thư Đảng ủy, cùng với các cấp ủy Đảng cơ sở chi bộ, Đảng bộ Ban Quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành đã kết nạp được hai mươi bốn đảng viên mới, tính ra năm nào cũng có lực lượng mới bổ sung cho Đảng. Nhiều đảng viên trong số đó hiện đang đảm nhiệm vị trí trưởng phó phòng ở ban, trưởng, phó trạm ở cơ sở; có đồng chí được điều về làm chi cục trưởng, chi cục Kiểm lâm tỉnh. Việc kết nạp Đảng được tổ chức trang trọng và gắn với nhiều hoạt động có ý nghĩa. Ví dụ, đợt kết nạp hai đảng viên mới nhất năm 2019, gặp đúng lúc trận lũ quét kinh hoàng tàn phá các huyện Mường Lát, Quan Sơn, cấp ủy chi bộ và hai Đảng viên mới đã đến tận bản Sa Na thăm hỏi đồng bào bị nạn và trực tiếp trao quà quyên góp ủng hộ của các Đảng viên trong chi bộ cùng bà con hảo tâm cho các gia đình bị thiệt hại nặng nề nhất.
Trong cuộc đời mình, đặc biệt là từ khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng, ông Phan Văn Hồ càng ngày càng thấy, những giá trị lớn lao và vĩnh cửu muốn thành hiện thực được đều phải được nhân dân ủng hộ, nói ngắn gọn là “được lòng dân”. Ông nhớ lại những ngày trong quân ngũ, sống trong dân, ở nhà dân, được dân thương yêu như người thân; nhớ lại những ngày mới vào rừng, con cái bị rắn rết cắn, bản thân bị sốt rét, bà con người dân tộc không những cứu chữa thoát hiểm mà còn phổ biến cho cách trồng các loại cây thuốc chữa bệnh; giờ đây ở cương vị giám đốc, bí thư Đảng ủy cơ sở, mọi hoạt động công tác Đảng liên quan đến an sinh xã hội và phát triển cộng đồng, ông Phạm Văn Hồ đều lấy dân làm gốc, thông qua các tổ chức chính trị xã hội như: hội Phụ nữ, đoàn Thanh niên, hội Nông dân, hội Cựu chiến binh... trên địa bàn phụ trách của ban Quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành. Thông qua bằng cách hợp tác bàn bạc, xây dựng tấm gương đảng viên có uy tín, biết cách làm ăn trong cộng đồng sở tại, làm điểm tựa cho các nhân tố mới học tập và phát huy. Ví dụ ở trạm Ngọc An, đảng viên Đỗ Bôn, nguyên là chủ tịch ủy ban nhân dân xã Ngọc Trạo, người đã tiên phong nhận khoán mười ha rừng phòng hộ với ngót hai ngàn gốc thông. Hộ ông Bôn không những bảo quản rừng tốt, thông phát triển đều, cho nhựa hoa lợi mỗi năm hàng chục triệu đồng mà ông còn tương trợ các hộ khác cách thức chăm sóc và bảo vệ rừng thông phòng hộ. Tấm gương “Đảng viên đi trước” của ông Đỗ Bôn và các đảng viên tiêu biểu ở Ban Quản lý, ở các trạm rừng phòng hộ khác là lực hút khởi sắc, là tác nhân quyết định đến kết quả ghi nhận ấn tượng: Hơn bảy ngàn ha rừng phòng hộ được bảo vệ an toàn, được mở mang phát triển và sinh lợi; bốn trăm hộ nhận khoán rừng giờ đều từ khá giả trở lên.
6. Trời bắt đầu tối, ông Phạm Văn Hồ bộc bạch, bà xã đi Hà Nội vắng, mời đoàn ở lại ăn bữa cơm rau dưa chiều rừng mưa với ông. Chị Quách Thị Tươi còn việc ở cơ quan phải về và chị bật mí, phu nhân Bí thư Đảng ủy, giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành Phạm Văn Hồ là bà Nguyễn Thị Dung, một Bí thư chi bộ thôn xuất sắc ở địa bàn xã Thành Vân, một hộ làm kinh tế trang trại giỏi của huyện Thạch Thành đang tham gia đoàn báo công trước Lăng Bác của tỉnh Thanh Hóa do Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nguyễn Đình Xứng dẫn đầu.
Tôi thật lấy làm tiếc chưa hỏi được nhiều về bà Nguyễn Thị Dung. Cơn mưa chiều muộn vừa dứt, chúng tôi chỉ biết vội vàng chia tay ông bí thư, giám đốc và hẹn một cơ duyên nào đó lại được dịp ngồi ở hiên ngôi nhà xây từ năm 1996 để trò chuyện với một cặp vợ chồng “Đảng viên đi trước”, và đặc biệt là cả hai ông bà đều là bí thư cấp ủy Đảng ở cơ sở.
Thanh Hóa 27-8-2019
L.N.M