Hôm chia tay, hắn tiễn tôi ra tận cổng Bệnh viện
- Về nhà, mày phải nhớ bồi dưỡng và uống thuốc đều đấy nhé! Cơ thể mỗi người đều có cái riêng, không trộn lẫn vào một ai, cũng như tính khí vậy. Phải biết lắng nghe, nương nhẹ và chăm sóc cho cơ thể mình, đó mới là người thông minh. Khi nào có điều kiện, tao sẽ về thăm quê. Tôi nắm chặt tay hắn ấm nóng trong lòng bàn tay giá lạnh của tôi, thằng bệnh binh sau cuộc chiến.
Xe từ từ lăn bánh. Qua cửa xe, tôi chăm chăm nhìn hắn. Thằng bạn học cá biệt ngày xưa, nay trở thành GS.TS - Giám đốc một bệnh viện lớn. Dưới nắng sớm, người hắn trắng muốt trong bộ bluse trắng, da mặt trắng, đầu cũng đã bắt đầu bạc trắng. Cái gì trong cuộc đời rồi cũng chuyển thành màu trắng. Trắng mắt, trắng đêm, trắng ngày chờ đợi... Đến lúc giã biệt cõi đời, ra đi với hai bàn tay trắng. Nhưng tôi biết, cây bút máy mạ vàng mà thầy Lư mua tặng hắn không bao giờ mất trắng, sẽ theo hắn cho đến hết cuộc đời, vì đó là trái tim nhân hậu của một người thầy. Thầy Lư ra đi cũng thế, thầy đã khắc sâu trong tâm khảm đứa học trò của thầy một kỷ vật, một tấm lòng, một nhân cách sống của một người thầy đúng nghĩa, không gì có thể bán mua hay đánh tráo được...
*
Tôi với thằng Ngoan cùng học với nhau từ ngày lớp một. Nhưng đến lớp 8 thì hắn bị đuổi học. Tôi còn nhớ năm ấy, chúng tôi vừa lên cấp ba, học lớp 8b, sau giờ kiểm tra toán, cả lớp ra chơi, đến khi vào, tự nhiên có đứa con gái kêu toáng lên là bị mất trộm bút máy. Thời ấy, bút máy là vật khan hiếm, có tiền cũng không mua được vì thuộc “hàng bán phân phối nội bộ”, chỉ con cái nhà khá giả hoặc cha mẹ làm cán bộ mới có. Đứa con gái bị mất trộm được mệnh danh là “Thủy tiểu thư”, vì bố nó làm phó chủ tịch huyện, phụ trách ngân tài mậu (tài chính, ngân hàng và mậu dịch).
- Ai trộm bút máy của bạn thì tự giác đứng lên! - Thầy Lư chủ nhiệm còn trẻ nhưng dáng người gầy khô, có cái cổ cò lộ yết hầu, cất giọng nghiêm khắc. Một phút, hai phút rồi ba phút... Không khí căng như giây đàn. Lũ học trò chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, đứa nọ ngờ vực đứa kia.
- Tất cả để cặp sách lên bàn, tự giác lộn túi quần túi áo ra!
Các cặp sách lập tức được mở tung, túi áo, túi quần đều lộn mề gà. Đứa nọ nhìn vào túi đứa kia, mắt ngơ ngác đầy vẻ hoài nghi.
Thằng Ngoan ngồi ở bàn cuối, nghe thầy giáo ra lệnh, mặt hắn bỗng tái mét. Thầy Lư nhìn thấy và đi nhanh xuống, nghiêng đầu nhìn xoáy vào mặt hắn như muốn nói với hắn rằng, thầy đã thấu tâm can kẻ gian manh rồi. Xong, thầy tự thò tay vào các ngăn cặp của hắn khám. Chỉ không đến một phút, thầy Lư lạnh lùng giơ chiếc bút máy hiệu “kintin” vàng chóe do Trung Quốc sản xuất lên cho cả lớp xem. Con Thủy mặt tươi tỉnh, nhận đúng bút của nó. Danh tính kẻ trộm đã được xác định. Tên hắn là Nguyễn Hữu Ngoan!
Thằng Ngoan miệng lắp bắp định phân bua điều gì đó. Nhưng hắn còn gì mà phân với bua, mà ai thèm nghe hắn, khi mà vật mất trộm nằm trong cặp của hắn? Tang chứng vật chứng rành rành! Thầy Lư tỏ thái độ lạnh lùng, quay ngoắt một góc 180 độ, cắp cặp đi thoăn thoắt sang lớp 10 A, tỏ vẻ như không muốn nhìn mặt hắn nữa. Hắn đứng ngây như trời trồng trước cái nhìn ghẻ lạnh của mọi người.
Sáng thứ hai tuần sau, xong giờ chào cờ, thầy Hiệu trưởng Lê Bá Thâu, có nét mặt nghiêm nghị, nước da nâu đen trông ông như Bao Công trên bàn xử án, thông báo về hành vi trộm cắp của học sinh Nguyễn Hữu Ngoan lớp 8b và đọc Quyết định của Hội đồng kỷ luật Nhà trường đối với hắn bằng hình thức “buộc thôi học”. Tôi nhớ thầy còn nói thêm rằng, “tôi rất buồn vì cha mẹ đặt tên em là Ngoan mà lại không ngoan. Rất thương em nhưng kỷ luật là kỷ luật, không thể nương nhẹ, phải làm gương cho những em khác!”.
Hôm ấy trời rét mà thằng Ngoan mặc rất phong phanh. Áo sơ mi vải phin trắng cũ, bên ngoài có mặc thêm áo cổ tròn, đan bằng sợi len gai thưa, màu xám, chắc là mẹ hắn đã thức nhiều đêm để đan cho hắn. Mắt hắn mở to vẻ bất ngờ nên trông càng ngây dại, ngơ ngác. Vai hắn so lại, người run lên, không biết vì rét hay là xấu hổ. Có lẽ hắn cũng không thể hình dung mình bị kỷ luật nặng đến thế. Nghe công bố xong, hắn tách khỏi đội hình lớp, đi như chạy lên bục hội trường nhận tờ Quyết định kỷ luật rồi trở vào lớp học lấy cái cặp cũ, lủi thủi đi ra cổng trường. Bóng hắn khuất dần sau rặng phi lao vi vút gió trong buổi sáng mùa đông rét căm căm năm ấy...
*
Lần ấy tôi phải mổ loại trừ khối u, tình cờ vào đúng Bệnh viện của Giám đốc Nguyễn Hữu Ngoan. Hơn một tháng sau, khi đã qua các khoa chuyên môn kiểm tra rất khắt khe về các chỉ số an toàn sau mổ, chuẩn bị xuất viện thì hắn xuống khoa mời tôi lên phòng riêng chơi. Từ lần hắn bị đuổi học năm ấy, mãi nay, sau gần ba chục năm, hai thằng mới tình cờ gặp nhau. Chắc chắn hắn mời tôi lên để kể cho tôi nghe tường tận khúc nhôi cuộc đời của hắn từ ngày ấy đến giờ. Còn tôi cũng tò mò, muốn biết những năm tháng khốn khổ của hắn sau lần bị đuổi học như thế nào và do đâu mà hắn lại được ăn học tử tế và tiến bộ một cách đáng ngờ như thế? Bao nhiêu năm trôi qua, vậy mà khi ngồi đối diện, nhìn vào mắt nhau, tôi có cảm giác như hắn vẫn còn buồn vì cái quá khứ chẳng mấy tốt đẹp từ thuở học trò.
- Mày ngồi xuống đi. Tối nay ngủ lại với tao, ôn chuyện cũ. Số mày còn may, phát hiện sớm. Giờ thì ổn rồi. Về nhà nịnh vợ cho tốt, nhờ bồi dưỡng, ăn uống đúng chỉ định, uống thuốc đều đặn, chịu khó vận động nhẹ.
Tôi gật gù và chăm chăm nhìn hắn. Hắn cũng nhìn tôi, trong ánh mắt của hắn, thừa biết trong lòng tôi đang nghĩ gì? Tự nhiên hắn lặng người đi, mắt thẫm lại, rượi buồn, như thể bầu trời thu trong sáng bỗng bị áng mây đen nặng nề thoáng lướt qua.
- Gặp tao, mày ngạc nhiên lắm phải không? - Hắn cười. Mấy chục năm nay, tao chả gặp lại đứa bạn học cũ nào. Đôi lúc nhớ mái trường xưa, nhớ các bạn, rồi nghĩ tới cái chuyện mất bút của con Thủy tiểu thư ngày ấy, lại thấy buồn cho cái quá khứ khốn khổ của tao. Hôm hội chẩn, lướt qua bệnh án, tao nhận ra mày nên mới trực tiếp cầm dao mổ cho mày. Sao mày phải ra tận đây để khám?
- Vợ chồng tôi ra thăm con trai đang công tác ở Học viện Chính trị. Lâu nay tôi cứ thấy vùng gan đau âm ỉ, nhấn tay vào thì nhói, ra đây con trai nghe mẹ kể, mới đưa bố đi khám, may vào bệnh viện của ông. Thật đúng là duyên trời! Nhà tôi có phúc lớn mới gặp được ông, chứ không thì toi rồi.
- Toi thế đếch nào được! Ngày trước đánh trận, đạn bom như rắc trấu mà không mày toi, chứ bây giờ! Thế ngày ấy, mày ở chiến trường nào? Thì ra hắn biết tôi cũng đã từng đi lính. Hắn nhìn tôi, ánh mắt tỏ vẻ chân thành. Tôi biết, hắn muốn tạo cho tôi sự gần gũi, thân thiết của một thời từng là bạn bè chung trường, chung lớp với nhau. Sau rồi, tự nhiên hắn ngẩng cao đầu, soi thẳng vào tôi ánh nhìn thăm thẳm.
- Mày còn nhớ thầy Lư chủ nhiệm lớp ta ngày ấy không?
- Sao lại không nhớ. Sau ngày tốt nghiệp cấp ba, tao với thầy cùng nhập ngũ một đợt.
- Thế thì mày với thầy nhập ngũ sau tao có mấy tháng thôi. Vào chiến trường, tao đã gặp thầy Lư, cũng là lúc thầy trút hơi thở cuối cùng. Đúng là người ta có vận số! Hắn dừng lại, mắt đượm buồn.
- Ông gặp thầy Lư à? Chiến trường rộng thế mà thầy trò gặp nhau. Đúng là duyên trời! Chắc ông còn thù thầy ấy lắm!
- Chuyện đã xưa lắm rồi! Nhưng thực lòng, ban đầu tao cũng oán thầy ấy lắm. Nhưng sau này tao nghĩ lại, tất cả là lỗi của tao. Thực sự ngày ấy là tao không lấy trộm bút máy của con Thủy. Mày có nhớ là trước tiết đó, có kẻng báo động, cả lớp chạy ra hào giao thông để tránh máy bay không? Tao nhặt được chiếc bút máy ấy ở một góc giao thông hào. Tao chỉ chưa kịp thông báo với các bạn trong lớp là có ai đánh rơi bút không thôi. Thực ra thì tao cũng có chút máu tham. Đúng ra thì nhặt được thì thông báo ngay cho người mất luôn, nhưng tao còn đang đấu tranh tư tưởng. Mày bảo, cái bút đẹp như thế, là học trò, nhặt được của rơi, thằng nào mà chả thích? Thôi thì cứ coi như là tao trộm. Nhặt được của rơi không thông báo cho người mất.
Hắn ngồi yên, hít hơi, thở dài, có vẻ buồn về những tháng năm không mấy may mắn trong đời học trò của hắn.
Sau ngày tao bị đuổi học thì con Thủy có xuống nhà tìm tao. Nó khóc và xin lỗi tao. Nó bảo, giá như nó đừng kêu là mất bút thì có phải tốt hơn không... Tao bảo nó là Thủy về đi! Thực tình là mình nhặt được dưới giao thông hào. Nó lại càng khóc. Nó thừa nhận là có đến trú ở góc giao thông hào đó. Mấy chục năm qua tao cũng không gặp lại nó. Thực ra nó cũng là đứa tốt tính. Thầy Lư cũng xuống nhà tìm tao nhưng tao đã bị bố tao bắt đi làm thuê từ lâu rồi! Mày có tin gì về con Thủy không?
- Không! Tôi kém may mắn hơn ông. Xuất ngũ, thi vào học sư phạm 10+3, ra trường bị điều lên dạy miền núi gần 10 năm trời, mới được thuyên chuyển về xuôi. Bạn bè xưa biệt tăm hết. Nhưng mà thôi, chuyện cũ, ông nhắc lại làm gì? Ông gặp thầy Lư trong trường hợp nào? - Tôi cắt đứt câu chuyện, muốn lôi hắn ra khỏi cái quá khứ u buồn đó.
- Trận chiến Thành Cổ Quảng Trị mùa hè năm 72, cuộc vượt sông Thạch Hãn. Nói đến đó thì hắn dừng lại, ngửa cổ ra đằng sau, lắc lư cái đầu khổ ải, tóc đã bạc quá nửa, như tìm về cảm xúc xưa, hồi tưởng lại giờ khắc gặp nhau của hai thầy trò hắn.
- Khi Trung đoàn tao vượt quá nửa sông thì bất ngờ pháo địch dội xuống. Lưới lửa dày đặc của đối phương khiến đội hình quân ta tan tác. Mày biết là khi vượt sông, quần áo bộ đội đều cởi ra cho vào tấm tăng buộc túm lại, vừa làm phao bơi vừa là bệ gác súng. Tao chứng kiến bao nhiêu cái chết âm thầm của đồng đội ngay bên cạnh mình. Khi được lệnh vượt sông, mày có hình dung được không? Cả một mặt sông nhấp nhô hàng ngàn cái chấm đen, mỗi cái chấm đen là một cái mũ cối, là mỗi mạng người. Thế mà chỉ qua một làn pháo dập, còn lại vài trăm cái. Có một quả đạn pháo rít chói tai, xoáy tít nổ gần như ngay trước mặt tao. Tao vội buông tay cho thân thể chìm sâu xuống rồi mới trồi lên để tránh quả đạn. Ở ngay phía trước, sát cạnh tao, có mấy chục cái mũ cối nhấp nhô. Cứ nghe một tiếng ục là biến đi một vài cái mũ cối. Rồi lại ục ục, mấy cái mũ cối cũng mất tăm luôn. - Hắn nhìn tôi, mắt bỗng ngơ ngác như quả đạn vừa mới nổ bên tai hắn. Tao có cảm giác như những người lính tụt xuống đi dưới đáy sông chứ không phải họ chết. Làm sao cái chết lại có thể đến nhanh chóng và dễ dàng đến thế? Tao cố nhoài người lên thật nhanh. Lại gặp một cái mũ cối nhấp nhô. Người này bị thương nặng nhưng còn cố bám vào phao, nhưng phao bị thủng và ngấm nước nên anh ta bắt đầu chìm. Tao vội bơi lại xốc nách anh ta lên để bám vào phao của tao. Khi bỏ cái mũ cối ra cho khỏi vướng, trong ánh sáng ma quái của đèn dù và pháo sáng địch rõ như ban ngày, nhìn khuôn mặt khắc khổ, cái cổ cò lộ hầu, cái cằm nhọn, tao nhận ra đúng thầy Lư. Trời ơi! Số phận thật nghiệt ngã, trớ trêu để hai thầy trò gặp nhau trong một tình cảnh khốn khổ như thế này. Tao hít một hơi dài để tăng sinh lực rồi cứ thế dìu thầy di chuyển chậm chạp trên mặt sông. Một lúc sau thì chân tao đã tiếp cận bờ đất. Tao chỉ còn đủ sức kéo thầy ghé lên bờ rồi nằm thở. Quân ta còn sống sót người nào thì ào lên, không kịp mặc quần áo, trần thùi lụi, trắng lốp, cứ thế tiến vào, lẩn vào bóng đêm, tiến về hướng Thành Cổ. Tao để thầy nằm ngửa, nửa người dưới nước, nửa trên bờ. Cái cổ lộ hầu của thầy như nhô hẳn ra, thụt ra thụt vào, trông rất tội.
- Thầy Lư! Trời ơi thầy! Thầy có nhận ra em không? Em là thằng Ngoan lớp 8b đây.
Thầy Lư nhìn vào mặt tao một lúc, chớp đôi mắt đã lờ đờ, rồi sau đó thầy cũng nhận ra tao. Thầy kêu lên khe khẽ vì sức thầy cũng đã yếu lắm rồi. “Ngoan! Em...”.
- Em đây thầy!
Tao ôm lấy thầy, kéo hẳn lên bờ đất. Cả hai thầy trò ôm lấy nhau. Giây phút ấy, bom đạn như thế, chắc chả ai tin là mình còn sống sót. Máu từ ngực thầy vẫn rỉ ra, thấm đỏ trên cát. Thầy giơ bàn tay đã gần hết sinh lực sờ vào mặt tao. Thầy bảo:
- Ngoan! Chắc em còn thù ghét thầy lắm phải không? Năm ấy, sau khi Nhà trường kỷ luật em, thầy ân hận lắm. Thầy đã tìm đến nhà em mấy lần nhưng không gặp. Em bỏ đi đâu hay cố trốn không muốn gặp thầy? Thầy biết, thầy đã sai. Ba năm sau, nghe tin em vào bộ đội, thầy cũng lên đường nhập ngũ. Chiến tranh mà! Không ai có quyền đứng ngoài cuộc. Thầy thầm khấn trời Phật là vào chiến trường sẽ gặp được em. Đúng là trời Phật đã phù hộ thầy trò ta em ạ! Nói rồi thầy khóc không thành tiếng.
Tao nhìn sắc mặt thầy và giọng nói, biết thầy đã quá yếu rồi, khó qua khỏi. Tao mới bảo thầy: “Thầy ơi, thầy có dặn lại gì không? Sau này, nếu em còn sống, em sẽ...”.
Thầy Lư nấc lên mấy cái, mặt giàn giụa nước mắt.
- Ngoan ơi! Em mở hộ cái túi vải nhỏ thầy đeo trên cổ. Có gì trong đó, em lấy hết ra cho thầy.
Bây giờ tao mới để ý, trên cổ thầy có một sợi dây nhỏ. Tao lần sợi dây đeo ở cổ thầy, thấy có buộc một cái túi vải nhỏ. Tao lồng qua cổ thầy, mở vội và lấy ra một gói giấy bọc ni lon rất cẩn thận giơ ra trước mặt thầy.
- Có phải cái này không thầy?
Thầy Lư thì thào:
- Ừ! Đúng rồi em. Đây là những thứ thầy đã chuẩn bị sẵn, để khi vào chiến trường nếu may mắn gặp được em thì thầy sẽ trao cho em. Vì biết rằng, thầy trò có gặp nhau thì cũng không có thời gian tâm sự. Ngoan! Đó là cây bút máy hiệu “kintin” mạ vàng của Trung Quốc, giống như cây bút của cái Thủy, thầy đã tìm mua để tặng cho em. Tờ giấy tiếp nhận của ban Giám hiệu Nhà trường đồng ý nhận em trở lại học do thầy đề xuất ý kiến. Thầy đã tìm em suốt hai năm trời nhưng không gặp. Gia đình em chuyển đi đâu hay em cố trốn thầy? Khi Nhà trường kỷ luật buộc em thôi học, em mới mười mười lăm tuổi đầu. Thầy đã nhẫn tâm đẩy em ra đường. Đáng lẽ phải nghe em trình bày, ít nhất thì cũng tạo cho em cơ hội sửa chữa lỗi lầm, nhưng thầy quá mô phạm, quá tin vào nhận định chủ quan của mình. Em hãy tha thứ cho thầy. Ngoan ơi! Thầy không xứng đáng...
Nghe thầy nói thế, tao ứa nước mắt. Tao cũng khóc. Tao muốn khóc to lên nhưng giữa trận chiến ác liệt, làm gì có thời gian để mà khóc? Tao cảm thấy cơ thể thầy đang lạnh dần. Khi tao buông thầy ra thì thầy Lư đã ra đi mãi mãi...
Tôi ngẩng mặt lên nhìn hắn. Mắt tôi cũng ướt nhòe từ lúc nào. Câu chuyện của hắn kể khiến tôi xúc động quá. Tôi đứng dậy ôm lấy hắn. Ôi Ngoan ơi, thầy Lư ơi! Vào chiến trường, đối mặt với cái chết, con người ta mới nhận diện ra cái bản ngã của mình, mới biết thương nhau. Đôi khi, giữa đời thường, người ta đâu có nghĩ ra điều đó. Thầy Lư cũng thế, là người thầy, chỉ lo tròn phận sự, đâu đã thấu hết những nét riêng trong tâm hồn mỗi đứa học trò của thầy?
Thằng Ngoan đứng dậy đi vào gian bếp. Hắn pha cho tôi cốc nước chanh, còn hắn thì rót đầy một cốc nhỏ rượu vodka. Tôi biết thần kinh của hắn có vấn đề, đang bị tác động bởi cảm xúc mạnh. Tôi nhìn thấy ánh mắt của hắn như còn thảng thốt, đớn đau như cuộc gặp của thầy trò mới vừa hôm qua thôi. Tôi với hắn cùng ngồi lặng yên như thế rất lâu, đợi cho cảm xúc lắng xuống.
- Mấy chục ngày đêm chiến đấu trong Thành Cổ, đồng đội xung quanh tao ngã xuống rất nhiều mà sao tao không hề hấn gì mới lạ. Tao dám chắc là linh hồn thầy Lư đã phù hộ cho tao.
Hớp một ngụm rượu nhỏ, vẻ mặt hắn trở lại sắc diện bình thường.
- Tao tin là linh hồn thầy phù hộ cho tao thật mày ạ, nên cấp trên mới điều tao vào đội tải thương.
- Thế ông xuất ngũ năm nào?
- Sau năm 75. Tao không về học trường cũ nữa mà học trường Bổ túc văn hóa quân đội dành cho quân nhân xuất ngũ. Tốt nghiệp cấp ba Bổ túc văn hóa, tao thi vào Đại học Y Hà Nội ...
Hắn lại đứng dậy, đi nhanh vào phía trong, mở cánh cửa tủ, quay ra, hắn đưa cho tôi xem cái bút máy hiệu “kintin” của thầy Lư tặng hắn. Mấy chục năm rồi mà nước mạ của chiếc bút vẫn còn óng ánh vàng như mới.
- Cái bút máy của thầy Lư tặng tao đây mày! Mày thừa biết, ngày ấy, chiếc bút này là cả tháng lương của thầy. Thầy đã dành dụm từng đồng lương còm mua cho tao. Sáu năm đại học, rồi sau này theo học lên cao học, tao giữ gìn như báu vật. Không biết linh hồn thầy linh thiêng thế nào mà mỗi khi cầm vào cây bút, đầu óc tao trở nên thông tuệ, sắc sảo, đọc đến đâu hiểu đến đó. Giống như tao sinh ra là để cống hiến cho khoa học vậy! Sáu năm học, năm nào tao cũng được nhận học bổng.
Tôi cầm cái bút máy hiệu “kintin” của Trung Quốc sản xuất do chính tay thầy Lư mua tặng hắn mà lòng dâng đầy biết bao cảm xúc. Toàn thân chiếc bút bằng kim loại được mạ vàng óng ánh như vàng thật, đến bây giờ nhìn vẫn rất sang trọng. Ba mươi năm trước, đã từng là ước mơ của bao cô cậu học trò. Giờ thì nó chỉ là vật kỷ niệm cao quý nhưng chứa đựng bao nỗi đớn đau của con người. Cây bút đã đi qua một thế hệ chúng tôi, những người lính trẻ sẵn sàng xả thân vì nước, đã từng theo thầy trò thằng Ngoan vượt sông Thạch Hãn, thấm máu bao nhiêu đồng đội tôi, chứng kiến cuộc đối đầu lịch sử khốc liệt với quân thù trong cuộc chiến giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
- Tao đã hai lần mò vào tận nghĩa trang Quảng Trị, tìm rất kỹ mà vẫn không thấy mộ thầy. Khi thầy hy sinh, tao chỉ kịp bới một hố cát nông choèn đủ vùi kín thi thể gầy nhom mà trần thùi lụi của thầy cùng với cái túi vải thầy đeo ở cổ có đựng số hiệu quân nhân trong đó. Mày bảo, lúc ấy, pháo bầy của địch dập liên tù tì, có cái xác vừa vùi xong lại bị đạn pháo bật tung lên.
Để không khí bớt nặng nề, tôi lái câu sang hướng khác.
- Thế sau lần bị đuổi học, ông biến đi đâu mà mất tăm mất dạng thế? Tôi đã sang nhà tìm ông bao nhiêu lần, hỏi mẹ ông, bà chỉ nói là nó đi làm ăn rồi. Làm ăn cái quái gì vậy?
Nghe tôi hỏi thế, hắn cười tươi lắm nhưng miệng lại méo xệch.
- Năm ấy tao mới mười lăm tuổi đầu, bị tống cổ khỏi trường học thì còn biết làm gì? Đi công nhân hay lính thì chưa đủ tuổi. Về nhà đưa tờ Quyết định, mẹ tao thương con, chỉ biết khóc. Còn bố tao thì lặng lẽ nhìn tao từ đầu đến chân, cứ như tao là người xa lạ từ đâu đến. Một buổi sáng, ông ấy kiếm đâu ra hai hòn đá mài to, được gọt đẽo vuông vức, một thô, một tinh, buộc vào hai đầu đòn gánh rồi bảo: “Lớn rồi! Không học được thì phải vào đời mà kiếm sống, không ai nuôi báo cô loại trộm cắp vặt! Thằng học trò bị đuổi học, cũng giống như con dao cùn, phải kiên tâm mài, mới sắc được. Dao không mài, dao cùn, người không rèn luyện, người hư”. Trời ơi! Ông ấy nói giọng đầy triết lý sâu xa. Ông ấy đã nghĩ kỹ như thế, không đi thì ông ấy đánh chết! Tao đành quảy toàng teng hai đầu đòn gánh hai hòn đá mài rời khỏi cổng nhà mình, cất bước chân đầu tiên đi ra thiên hạ kiếm ăn. Bị bố đuổi ra khỏi nhà, tao vừa buồn vừa nhục. Nhưng tao tạc dạ từng lời của ông ấy. Mày bảo sao không nhục? Nhà trường còn gửi quyết định kỷ luật về địa phương để “chính quyền và gia đình quản lý giáo dục”. Mày bảo tao còn dám vác mặt đi đâu nữa chứ! Đi khỏi cái làng mình trong lúc này, âu cũng là một điều tốt. Thế là tao gánh hai hòn đá mài cắm cúi bước, nước mắt lã chã rơi xuống chân. Tao cứ bước miết, không muốn quay đầu trở lại. Mà cũng không dám quay đầu. Tao chỉ có một con đường, phải bước ra ngoài đời kiếm sống. Không kiếm được thì nhảy xuống cầu Sành mà tự tử (Nghe hắn nói đến cầu Sành, tôi chợt nhớ đến cây cầu ở quê tôi, được xây từ thời Pháp thuộc, xưa kia theo lời các cụ kể, đầy bọn cướp đêm cướp ngày. Đã có mấy cái xe khách đi trật bánh rơi xuống, cả người và xe bị cháy thành tro). Tao cứ cắm cúi đi cho đến khi nhìn lên, thấy mặt trời sắp lặn, thấm mệt mà bụng đói kinh khủng, tao mới ghé vào một bản người Mường ở ngay chân núi. Tao liều bước vào ngõ một ngôi nhà sàn nhỏ, vào sân, thấy có một bà mế đang giã gạo và một cô con gái chừng độ tuổi tao ngồi sàng sảy. Thấy tao vào, họ dừng công việc nhìn ra, tưởng tao là khách. Tao mới bảo là nhà có dao cùn để mài không? Cháu là người dưới xuôi, làm nghề mài dao thuê. Nhà bác có tiền thì đưa, không thì cho cháu xin bữa cơm cũng được. Chả biết lúc ấy ai xui mà tao nói lưu loát được như thế. Sau này mới nghĩ lại là do cái bụng đói mà ra cả. Các cụ ngày xưa từng nói “đói thì đầu gối phải bò” là gì? Nghe tao nói thế, người mẹ lẳng lặng nhìn tao rồi đi nhanh vào nhà đưa ra mấy con dao liền. Tao ngồi ở góc sân cắm cúi mài cho đến gần tối thì xong. Tao mài dao sắc lắm, vì trước khi đi, bố tao cũng bày cho mấy đường cơ bản. Đến chập choạng tối thì ông chồng đi nương về. Nghe họ nói một tràng tiếng Mường với nhau, tao không hiểu hết nhưng đại khái là ông ấy nói nhà có đàn ông sao phải thuê thợ mài dao. Người vợ nói lại, giọng hiền mà êm ái như ru, là thương nó còn nhỏ mà phải đi mài dao thuê, chắc nhà nó nghèo khổ lắm...
Đêm hôm ấy, tao được ăn cơm với món măng chua nấu cá suối. Ăn xong, tao xin ngủ trọ lại, đợi sáng mai mới đi được chứ giờ tối rồi còn biết đi đâu? Vợ chồng nhà ấy đồng ý. Đêm ngồi bên bếp lửa, con bé ấy cứ nhìn tao chăm chắm như muốn nói điều gì. Tao nhìn mắt nó, mắt con gái Mường, lạ mà dễ thương lắm mày ạ, vừa ngây dại, và dễ tin người. Chắc nó thấy tao mài dao xoèn xoẹt cả chiều mà chỉ xin một bữa cơm, nên thương và có cảm tình với tao. Một lúc sau thì người bố quăng mảnh chiếu và một cái gối mây vào góc nhà sàn, bảo tao lại đó mà ngủ. Thế là ngày đầu tiên, tao đã kiếm được cái ăn và có một chỗ ngủ tạm cho là tử tế. Kể đến đó, hắn cười lên ha hả, có vẻ thú vị và ý còn hào hứng kể tiếp, nếu tôi thích nghe. Tôi cứ lặng người nghe hắn kể. Tôi không hình dung được cuộc đời của hắn lại rẽ sang lối khác như thế. Ngày ấy, tôi là con trai một, cha tôi chiều chuộng lắm. Giả như tôi lâm vào hoàn cảnh như hắn, chết đói là cái chắc.
- Tao chợp mắt được một giấc thì tỉnh vì lạnh. Đêm miền núi, khí lạnh từ núi đá tỏa ra theo làn sương mù dày đặc lùa qua “cửa voóng” khiến tao rét run. Ngoài vườn trăng khuya nhợt nhạt như da mặt người chết. Tao nghe có tiếng cú rúc và tiếng bay lạch phạch của mấy con chim lợn ăn đêm kêu éc éc làm lay động cành lá một góc vườn khuya. Tao bắt đầu sợ. Ngay lúc đó có bước chân bước nhẹ trên sàn rồi một chiếc chăn thổ cẩm ném xuống người tao. Tao vội trùm lên, đắp kín đầu. Ấm quá! Người mang chăn không nói gì, nhưng tao biết, chính xác là cô bé người Mường ấy.
- Ông bịa chuyện giỏi đấy! Cứ như một cuốn tiểu thuyết!
- Tao xin thề với mày là một trăm phần trăm sự thật. Nếu sai, mày cứ ném tao vào rừng cho hổ ăn thịt. Tôi cười, nhớ lại ngày còn bé, đã mấy lần hắn đã thề với tôi như thế.
- Sáng hôm sau, cô bé người Mường lại dẫn tao đến các nhà quen để mài dao. Lần nào cô ta cũng dặn trước khi ra về: “Mài dao xong rồi thì về nhà mà ăn cơm, anh người Kinh nhé!”. Thế là tao đã có việc làm, có chỗ ăn, chỗ ngủ như một gia đình thực thụ. Mày bảo số tao có may không?
- Mày phải lòng cái thằng người Kinh đó rồi phải không? Hai năm sau ngày tao tá túc tại nhà con bé người dân tộc Mường xinh đẹp ấy, ông bố bắt đầu tra khảo nó vì thấy bọn tao có vẻ quyến luyến nhau. Con bé lại hay dẫn tao vào suối để tìm đá mài. Rồi đêm nào tao với nó cũng ngồi rất lâu bên bếp lửa. Con bé gật đầu. Ông ta nghiêm mặt, quay sang nhìn tao, ánh mắt sắc như con dao mới mài.
- Thế mày đã ngủ thăm với con gái tao chưa?
Tao lắc đầu. Ông ta lại bảo: “Tao không tin cái thằng người Kinh mày. Mày với nó vào suối cả ngày, khi về tao thấy cái váy của nó đã ướt, lại xộc xệch mà mày bảo mày không? Từ giờ mày không được đi đâu khỏi cái làng này. Để xem cái bụng của con gái tao có sưng như bị ong đất đốt không đã. Nó cứ to dần lên là mày phải ở lại đây làm rể tao, ở lại cái bản này mà mài dao. Bản tao còn nhiều dao cùn lắm, mà dân bản cũng thích mày”. Nghe bố cô ta dọa thế, tao hoảng hồn, mới trốn về làng. Mấy tháng sau, có đợt tuyển quân nên tao đăng ký đi luôn.
- Thế mà mày nỡ bỏ mặc cô bé người Mường ấy để cho ông bố cô ta hành hạ à?
Hắn thì thầm: “Đâu có! Khi xuất ngũ, tao đã lên tìm cô bé Mường tốt bụng và xinh đẹp, ân nhân của đời tao, định trồng cây si ở bản, nhưng cô ấy đã chết trong một trận lũ quét rồi! Mà cô ấy bị nước lũ cuốn ngay ở con suối mà tao với cô ấy hay vào tìm đá mài. Có thể vì nhớ tao nên cô ấy vào tìm lại dấu xưa rồi không may gặp lũ lớn, bị nước cuốn đi chăng?”. Hắn nhìn vào tôi, mắt ướt nhòe như khóc...
Thằng Ngoan bảo tôi ngủ lại với hắn một đêm nhưng tôi từ chối. Câu chuyện hắn kể, nghe như thế đã đủ, ở lại, chỉ làm cho hắn buồn thêm. Cuộc đời vốn là thế. Khi mọi sự đã qua rồi, cứ phải để cho nó qua đi...
2-2020
T.T