Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Truyện ngắn   /   Mùa hoa gạo
Mùa hoa gạo

“Cứu… cứu!”. Tiếng kêu của người bị nạn vọng lên trong cánh đồng rậm rạp, hoang vắng giữa đêm tối khiến ông bà Phê thức giấc. Con chó có bộ lông màu xám trắng xô ra cửa sủa bâng quơ mấy tiếng như cảnh báo cho chủ. Âm thanh của tiếng sủa hoang dã, u oán, như sói lạc đàn. Con chó này vốn là con của một con sói cái. Hai năm trước, mẹ nó bị đám thợ săn trong bản bắn chết, để lại mấy con sói con nheo nhóc chạy tản mát khắp nơi. Lần ấy, ông Phê lên rừng hái lá thuốc, thấy nó nằm thoi thóp dưới gốc cây hoa dẻ rừng, thương tình, ông mang về nuôi. Tiếng chó tru lên đơn độc, dội vào vách đá, vọng lại, rồi chìm lỉm giữa màn đêm mịt mùng, đặc quánh. 
Trước đây, khi cha mẹ ông Phê còn sống, đã rất nhiều lần nghe tiếng kêu “cứu... cứu” tuyệt vọng giữa đồng khuya như thế, nhưng khi tìm đến nơi phát ra tiếng kêu thì nạn nhân đã tử vong. Mấy chục năm đã trôi qua, không biết bao nhiêu người đi tìm trầm trên núi Khú lạc xuống cánh đồng hoang vu này bị chết thảm bởi rắn độc cắn. Thi thể họ không người mai táng, nằm lẫn với xác động vật cùng chung số phận bị rắn độc cắn, thối rữa theo những trận mưa dầm dề kéo dài hàng tháng trời, để lại trên mặt cỏ hoang những bộ xương cốt xếp theo đủ hình dạng, phơi màu trắng đục dưới ánh trăng suông hay giữa trưa hè nắng như đổ lửa. Lần này nghe tiếng kêu, như có linh tính mách bảo, ông Phê biết người này còn trẻ, có thể chống chọi được lâu, khả năng cứu được. Lập tức ông ngồi lên, lay gọi đứa con gái độc nhất nằm phía giường bên cùng dậy. Dắt vội miếng gỗ cây ngao đá nhỏ vào thắt lưng, đốt thêm thẻ trầm đã chẻ sẵn, nhỏ chỉ bằng ngón tay cho tỏa khói rồi cha con cùng đi ra phía cánh đồng, nơi đang phát ra tiếng kêu cứu. Từ thời cha mẹ ông và sau này là vợ chồng ông làm nhà ra đây, chưa có ai từ trên núi lạc xuống thoát chết khi đi qua cánh đồng đầy ma quái và rắn độc này. Mấy trăm năm về trước, cánh đồng này là thủ phủ của các loài rắn độc. Rắn từ núi Khú, núi Doanh, núi Tam Bồng theo quán tính hay do trọng lực hút từ cao xuống thấp, chúng dồn cả lũ cả lĩ xuống cánh đồng rậm rạp bị che phủ bởi trăm loài thảo mộc, ngun ngút tử khí nơi đây. Khí hậu ẩm ướt, âm khí nặng nề, địa hình lẫn đất, lẫn đá, lại có nhiều hang hốc, rễ cây, kẽ đá, và nhất là nguồn thức ăn dồi dào, bởi ếch nhái, ễnh ương, chẫu chuộc, chuột trũi sinh sống dọc các hang hốc, bờ sông xói lở, tạo nên chốn thiên đường cho các loài bò sát chen chúc nhau sống chung theo bản năng gớm ghiếc của đồng loại chúng. Phía bên ngoài cánh đồng hoang là dòng sông nổi tiếng hung dữ, thác chảy ầm ào, gào thét suốt ngày đêm, bọt nước tung lên trắng xóa. Trên các ngọn cây bờ cỏ, cơ man là những cái đầu rắn độc nấp trong tán lá xanh thoắt ẩn, thoắt hiện. Có con đầu hình tam giác, xanh lè như màu lá cải non. Lại có con đầu bé tí, đuôi đỏ tía như quả ớt chỉ thiên chín nẫu, sẫm màu lửa, miệng thia lia những cái lưỡi dài, đen bóng, tẽ đôi, ẩn chứa thần chết bên trong. Những giọt nọc độc cực mạnh chuyển động ngầm dưới hai chiếc răng nanh hình vòng cung, sẵn sàng lao tới cắm vào bất kỳ nơi nào trên thân thể con mồi, tiết ra loại độc tố ghê gớm, khiến đối phương dù to khỏe gấp trăm ngàn lần cũng phải gục ngã. Dưới lớp cỏ cây rậm rạp, hàng ngàn con rắn đủ loài trườn đi trườn lại, quằn quại, quắn xiết. Khi đói, con lớn nuốt con bé, tranh cướp từng con ếch, con nhái, ễnh ương, chẫu chuộc nào vô phúc bị dòng nước nước lũ hay nước mưa cuốn xuống. Linh dương, trâu rừng, tê giác, báo hoa, báo đốm, cả cọp beo… bất kể vật hay người, khi sa xuống cánh đồng này là lập tức bị tê liệt bởi cái mổ chí mạng của chúng. Đêm hay ngày cũng thế. Đám cạp nong, cạp nia, hổ đất, hổ mèo, hổ mang chúa, rắn lục đuôi đỏ, chàm quạp, lục sừng… nhăm nhăm lao tới tấp, tìm kiếm, săn đuổi con mồi quyết liệt trong cuộc mưu sinh theo bản năng sinh tồn mà tạo hóa tạo ra và Chúa Trời ban cho chúng…
Hai cha con lặng lẽ vượt qua mấy bờ đất khấp khểnh, chỗ thấp chỗ cao, nhấp nhô những tảng đá núi bị che phủ dưới lớp cỏ mục và dây rừng, chân bước bập bềnh như lội trên sóng nước. Dưới chân họ có bao nhiêu con rắn đang trườn đi trườn lại, nhưng khi chúng ngửi thấy mùi hương trầm tỏa ra từ tay người cha, tức khắc chúng nằm yên như đang say ngủ. Đó là thứ gỗ trầm đặc biệt lấy từ ruột cây ngao đá mọc chờm ra trên vách núi cao. Loại trầm ấy không quý giá như trong ruột cây gỗ gió nhưng lại là khắc tinh của loài rắn độc. Khi khói của loại gỗ này bay ra, làm cho thính giác của trăm loài rắn độc tê mê như bị thôi miên, chúng trở nên hiền lành, vô hại.
Hai cha con đi qua một khoảng bờ đất rậm rạp, cỏ lác, cỏ gai lớp lớp chồng lên nhau thì thấy một người đàn ông đang ngồi gục xuống bờ đất. Anh ta không còn kêu được nữa, toàn thân gần như tê liệt. Một chân của anh ta duỗi thẳng, con rắn hổ mèo quấn chặt ngang bụng, còn miệng nó thì ngậm chặt mấy ngón chân. Bình tĩnh và thận trọng, ông Phê đưa miếng trầm đang tỏa khói nghi ngút vào gần mũi con rắn. Con rắn nằm im, lờ đờ, duỗi dần ra như sắp chết. Ông thận trọng dùng ngón tay cái đã cụt đến gần nửa, thọc vào miệng con rắn cho rộng ra, nhẹ nhàng gỡ nó khỏi thắt lưng và bàn chân người bị nạn rồi xốc vội anh ta lên vai. Nhưng hình như sức ông đã yếu, chỉ đi được vài bước, lưng đã trĩu xuống, không làm sao bước thêm được nữa. Cô con gái cầm đèn đi trước, quay đầu lại, thấy thế, liền đưa cây đèn cho cha. “Cha! Cha cầm lấy đèn đi cha!”. Người cha thì ngón chân, ngón tay cùi cụt, nhưng con gái ông lại có thân hình cân đối, tròn lẳn của một thiếu nữ vừa độ trăng tròn, giọng nói êm ái dịu dàng, cánh tay dài, khỏe khoắn, nhanh nhẹn xốc người bị nạn từ vai ông già sang mình. Hai cha con cùng nhanh chân rảo bước về nhà.
Cô gái đặt người bị nạn lên chiếc giường tre được lót bằng nhiều loại cỏ khô, tỏa mùi thơm dìu dịu. Rất nhanh, người cha đi vội vào phía trong, lấy ra một ống nứa nhỏ, miệng ống nút bằng lá cây khô, bên trong đựng một thứ nước sóng sánh, màu vàng như tơ tằm. Ông đưa mắt ra hiệu. Lập tức người vợ cùng cô con gái lật nạn nhân nằm ngửa, kê đầu lên gối cao. Người con gái có đôi bàn tay trắng hồng với những ngón thon dài, bóp nhẹ hàm cho miệng nạn nhân há ra. Người cha nhanh nhẹn dốc thứ nước sóng sánh ấy vào miệng. Nhưng quai hàm nạn nhân đã cứng đơ, cái chết đến rất gần. Ông Phê liền bịt mũi nạn nhân và gập đầu anh ta lại. Ực! Cổ họng anh ta giật mạnh lên trong một áp lực cuối cùng của người bị nghẹt thở. Anh ta đã nuốt được nước giải độc quý giá vừa đổ vào miệng. Ông Phê thở phào, nói nhỏ với vợ con: “Sống rồi!”...
*
Hơn nửa thế kỷ trước, ở bản người Mường nằm như gối đầu lên ngọn thác Ngốc Cùng, vùng thượng du một con sông lớn có tiếng là hung dữ. Nhiều đoạn sông bị những hòn đá núi khổng lồ đổ xuống do những vụ động đất từ thời tiền sử chặn ngang khiến dòng nước tức tối vồng lên cao rồi đổ xuống giống như cái bờm của một con chiến mã khổng lồ. Mùa lũ thì gầm thét, căm hờn, oán giận, mùa nước cạn lại như rên rỉ, khóc than. Trong một gia đình vợ chồng nghèo ở gần cuối một bản Mường ấy, người chồng bỗng dưng mắc chứng bệnh lạ. Các đầu ngón chân, ngón tay của anh tự nhiên cứ cụt dần, nước vàng lẫn máu rỉ ra, tanh tưởi và đau đớn. Ít lâu sau, người vợ cũng bị chứng bệnh như thế. Người trong bản cho rằng cả nhà ấy đã bị mắc chứng hủi, một căn bệnh lúc bấy giờ thuộc hàng “tứ chứng nan y”, vô phương cứu chữa. Vì lo sợ bị lây nhiễm căn bệnh gớm ghiếc nên cả bản không ai dám bén mảng đến nhà vợ chồng này. Cuối cùng vì sự tồn vong của cả bản, lão lang Mường liền mời thầy mo đến. Sau khi lập đàn cúng bái, dân bản chọc tiết con trâu mộng lấy máu tế thần rừng, liền tập hợp đinh tráng mang gậy gộc, vôi bột đến đổ xung quanh nhà ấy và buộc vợ chồng phải dời đi nơi khác thật xa, nếu không đi, nhà sẽ bị thiêu cháy, còn người sẽ bị chôn sống, rắc vôi bột lên trên. Vợ chồng nhà ấy, tức là bố mẹ ông Phê bây giờ, trong cơn bĩ cực, hoảng loạn, không còn biết dọn đi đâu, đành phải chuyển ra cánh đồng hoang vắng đầy thú dữ, rắn rết, không một bóng người qua lại này lánh nạn cho đến bây giờ. 
Trong những hoàn cảnh khốn khổ, tuyệt vọng của con người, đôi khi hình như lại có bàn tay nhân từ của Đức Chúa Trời giơ ra cứu vớt. Sau khi ra cánh đồng dựng nhà sinh sống, bố mẹ ông Phê tình cờ tìm ra một loại cây rừng có công hiệu kháng lại nọc rắn cực độc ấy. Khi bị rắn cắn, chỉ cần nhai nát vài lá cây đó, nuốt lấy nước, nọc độc trong máu sẽ bị trung hòa. Còn ruột cây ấy thì khi đốt lên, trăm loài rắn độc hít phải đều lảng xa. Bố mẹ ông Phê và sau này là vợ chồng ông đi lại trong bãi hoang đầy rắn độc vẫn bình yên vô sự. Lũ rắn độc hít phải thứ thần dược đó, như một phản xạ tự nhiên, chúng vội lảng xa. Trong hoàn cảnh đói rét bệnh tật, vì chưa trồng trọt được lương thực, nhờ có tình yêu, và vũ khí là cây ngao đá ấy mà bố mẹ ông Phê bình an cuốc đất, trồng ngô, gieo lúa, đánh cá sông, để tự nuôi sống mình, sau đó sinh ra ông Phê. Dân bản Gia Dụ ngày ấy đinh ninh là vợ chồng nhà bị hủi không chết vì rắn độc thì cũng chết vì đói rét. Nhưng họ cũng không thể ngờ là gia đình nhà hủi ấy năm tháng trôi qua vẫn tồn tại. Từ phía cánh đồng xa xa, đêm đêm người trong bản Mường ấy vẫn nhìn thấy ánh lửa ấm áp trong gia đình bị hủi ấy lọt qua vách nứa, lấp lánh reo vui. Và mỗi buổi chiều, khi trời quang mây tạnh, ngọn khói lam yên ả trong ngôi nhà tre lá của vợ chồng nhà ấy vẫn tỏa lên, báo hiệu một cuộc sống bình yên.
Sau này, ông Phê lớn lên, trở thành một chàng trai tráng kiện. Trong một lần ra sông đánh bắt cá, anh đã cứu được một người con gái trẻ trên thượng nguồn bị lũ cuốn. Đó là một trận mưa lũ khủng khiếp nhất của thế kỷ. Nước sông dâng lên ngập đến chân thác. Thác cũng không thể gầm gào bởi không còn chênh lệch dòng chảy. Buổi sáng hôm ấy, anh Phê đang ngồi bên bờ sông, ngay khúc ngoặt gần nhà. Gỗ rừng, nhà sàn, trâu bò bị nước cuốn ken đặc trôi trên mặt sông. Bỗng anh nhìn thấy một cái đầu người nhấp nhô và một cánh tay chấp chới giữa dòng nước xiết.  Không kịp đắn đo suy nghĩ, anh lao xuống dòng nước lũ như một con rái cá. Khi tiếp cận, thì đó là một cô gái trẻ. Cả nhà cô bị dòng lũ quét cuốn trôi, chỉ mình cô còn sống sót vì nhanh tay ôm chặt nhánh của một cây gỗ lớn. Cả hai gần như trần truồng khi vào đến bờ. Duyên số đến như có từ tiền kiếp. Để đền ơn cứu mạng, cô gái đã đồng ý kết duyên với anh, trở thành vợ ông bây giờ…
“Cha đưa tay con rửa lá thuốc nào cha”. Vừa nói, con gái ông vừa bê chậu nước lá thuốc đã pha chỉ còn hơi âm ấm, đặt cạnh người cha. Cô nhẹ nhàng dùng khăn lau từng đốt ngón chân bị vi trùng hủi ăn gần cụt hết, da tái ngắt. Ông Phê cảm thấy thật dễ chịu. Bệnh tình của ông hình như có đỡ hơn trước do nước thuốc lá ông tìm được có khả năng kháng khuẩn mạnh. 
- Đỡ hơn không cha? 
- Cha đỡ nhiều rồi con gái ạ! Con dành thời gian chăm sóc người đàn ông bị rắn cắn đêm qua đi con. Trông anh ta thật tội nghiệp. Chắc ở dưới xuôi, cũng thuộc vào những gia đình đói khổ nên mới lặn lội lên miền rừng hoang núi thẳm tìm trầm mong đổi đời đó con. 
- Con đã cho anh ta uống thuốc và đắp lá lên chỗ rắn cắn rồi mà cha!  
- Ừ, gái yêu của cha! Cha con mình gắng làm điều thiện, cứu người hoạn nạn, may ra trời Phật động lòng, giải thoát kiếp nạn cho cả nhà ta chăng? 
- Vâng! Thưa cha.
Chao ôi! Con gái ông hiền lành thánh thiện là thế! Mặc dù ông có thể tự mình chăm sóc bản thân, nhưng ông muốn con gái ông thực hành tự lòng nó, để rồi ông mừng. Ông mừng không phải vì ông được con ông báo hiếu. Ông mừng là nó đang tự giải cứu cuộc đời nó và tương lai con cháu nó sau này bằng thực hành cái tâm, cái đức. “Ở đời, để có được cái tâm sáng ấy, phải tự bồi đắp từ mấy kiếp nhân sinh đó con! Cha con ta phải làm lại tự kiếp này” - Ông tự nhủ.
Người đàn ông bị rắn độc cắn đêm qua đã tỉnh dậy. Anh ta còn trẻ, da mặt tái xám do nhịn đói đã nhiều ngày, ngơ ngác nhìn những người trong nhà. Nhìn bát nước lá thuốc cô gái đang bưng trên tay, anh đã hiểu ra tất cả. Đêm qua anh bị rắn độc cắn và đã được những người trong một gia đình bị hủi cứu sống. Anh nhìn thấy hai vợ chồng chủ nhà đều bị “con hủi” ăn gần cụt hết các ngón chân và một bên ngón tay. Chỉ có cô con gái tay chân lành lặn, nước da tươi non, hồng hào và rất xinh đẹp.
- Cháu đội ơn hai bác và cô đã cứu sống! Ơn này cháu sống xin tạc dạ, thác mang theo ạ! Xin hai bác và cô cho cháu lạy ba lạy. - Anh quỳ gối trước mặt ông Phê. 
- Đứng dậy cháu! - Ông Phê bỗng dưng thấy một tình cảm ấm áp như tình cha con trỗi dậy. Ông đưa đôi tay cùi cụt đỡ chàng trai đứng lên. 
- Cháu ạ! Hai bác và em gái đây cũng từng lâm vào cảnh ngộ khốn cùng. Cháu thấy đấy! Trước là ông bà, giờ thì đến vợ chồng bác. Khi những người trong gia đình bác bị bệnh, dân làng đã dồn đuổi cả gia đình ta ra cánh đồng hoang vu và đầy rắn độc này. Vận số nào run rủi cho bác cháu ta gặp nhau. Nào, lại đây cháu. Mà làm sao cháu đi lạc vào chốn nơi đây?
- Hai bác ơi! Quê cháu ở một vùng đồng bằng phía hạ lưu con sông cạnh nhà ta đây. Cháu theo bạn lên núi tìm trầm nhưng họ mắc một chứng bệnh lạ, đã chết trên núi cả rồi. Chỉ còn lại một mình, cháu đành lần mò xuống núi, tìm đường về quê. Vì hàng ngày từ trên núi cao, cháu đã nhìn thấy đốm lửa từ bếp nhà bác lọt qua vách nứa. Có thể đó là nguồn ánh sáng mà ông trời ưu ái hướng cho cháu đi tới chăng? Nhìn con sông gập ghềnh uốn khúc, bên cạnh nhà ta đây, mách bảo cháu hãy mau tìm xuống, nơi đó đang có người ở, sẽ được cứu giúp. Cháu liều mình băng rừng tìm đường xuống, theo niềm tin tự bản thân, nhưng không ngờ khi qua cánh đồng này thì bị nạn. Có lẽ trời còn thương cháu nên mới được hai bác và em nhà cứu giúp. Cháu xin tình nguyện ở lại nơi đây hầu hạ hai bác cho đến trọn đời mãn kiếp ạ!
- Đừng thề vội, con trai! Lời thề phát ra thì nhẹ, nhưng để thực hiện, còn nặng hơn quả núi kia! Dưới quê, cháu vẫn còn song thân kia mà! Không có tình thân nào bằng ruột thịt. Cháu có thể ở lại đây với gia đình bác, nhưng khi nào động lòng nhớ cha mẹ với công ơn dưỡng dục sinh thành, cháu cứ việc kết bè, thả trôi theo dòng con sông bên nhà ta mà về xuôi…
Chàng trai đã ở lại với ông bà Phê và cô con gái, tận tâm báo đáp ân tình của người đã cứu giúp mình. Có thêm người trai trẻ khỏe trong nhà, gia đình ông như được tiếp thêm sinh khí. Vợ chồng ông Phê vỡ thêm được nhiều thửa đất trồng trọt. Họ sống yên ổn và hạnh phúc bên nhau, cách biệt với làng xóm, những kẻ đã nhẫn tâm xua đuổi gia đình họ. Mặc dù sống bên cạnh bố mẹ cô gái bị hủi, nhưng anh không hề ghê sợ, cùng cô gái chăm sóc chu đáo ân nhân của đời mình. Rồi anh đem lòng thương yêu cô gái xinh đẹp và đã ngỏ lời yêu cô. 
- Em xin anh! -  Cô gái run rẩy quỳ xuống trước mặt chàng trai. 
- Anh hãy về xuôi với cha mẹ và các em của anh đi! Anh ở lại đây nhỡ lây bệnh của bố mẹ em thì sao? 
- Anh không đi đâu cả! Chắc là ông trời sắp đặt chuyện vừa qua để thử thách tình yêu của chúng ta mà thôi. Em đừng e ngại điều chi nữa! Anh đã mang lòng yêu thương em, sẽ ở bên em trọn đời.
Cô gái thực sự cảm động. Cô đã nghe thấu những lời nói ân tình từ sâu thẳm trái tim chàng trai. Họ ôm chặt nhau trong nước mắt tủi hờn.
Thương con, ông bà Phê làm thêm một cái lán để ở. Vợ chồng chúng nó phải ở riêng. Trong thâm tâm, ông bà suy nghĩ, ở riêng ra như thế, chúng sẽ không bị lây căn bệnh quái ác của cha mẹ. Sau này chúng sẽ sinh cho ông bà những đứa cháu khỏe mạnh, xinh xắn… 
Vào một chiều, đang là tiết tháng ba. Những cây gạo dọc hai bờ sông đang bung hoa. Từng chùm hoa rơi xuống hai bờ sông đỏ rực như ai đó vừa đổ lửa. Chàng trai tự nhiên thấy bụng cồn cào như lửa đốt, lòng tha thiết nhớ quê, chàng rể rụt rè đến gần thầm thì với cha vợ. 
- Cha ơi cha! Con đã ở lại đây hai mùa hoa gạo rồi! Cha thấy đấy! Ngoài sông, hoa gạo đỏ rực như lửa đốt lòng con. Con muốn xin phép cha mẹ cho con về xuôi, nơi con còn cha mẹ già và một cô em gái, một cậu em trai đêm ngày nhắc nhớ con. Chắc rằng lâu nay, họ tưởng con đã chết thảm nơi rừng xanh núi thẳm. Bố mẹ và các em con chắc khóc nhiều vì thương xót con. Con muốn mang tin vui về cho bố mẹ và các em. Cha ơi cha! Cha mẹ cho con về một thời gian rồi quay lên cha mẹ nhé!...
Lúc bấy giờ ông bà Phê cũng đã yếu, nhưng thương con rể và nghe nó nói cũng có tình, có lý lắm. Lâu nay nó sống bên cạnh ông bà, biết rõ nó là rể hiền. Ông gật đầu chấp nhận. 
- Con đã quyết như thế thì cha mẹ cũng đành chấp thuận. Nhớ sắp xếp công việc rồi quay lên với vợ con, con nhé! Nếu con không lên, vợ con chắc sẽ không sống nổi. 
- Vâng! Thưa cha. Con xin hứa với cha, chỉ có cái chết mới chia lìa con với vợ con thôi cha ạ!
Sáng hôm sau, cả mấy cha con cùng chặt luồng, nứa kết thành một chiếc bè nhỏ có mái lán che mưa nắng, có mái chèo để cho chàng rể vượt ghềnh thác, theo dòng sông về xuôi. Đêm hôm đó, chỉ còn cô gái nằm một mình. Ngoài kia là dòng sông nước réo ầm ầm, càng về khuya càng dữ. Chắc mé trên thượng nguồn vừa có mưa lớn. Bụng dạ cồn cào, cô lo chồng gặp cơn lũ lớn, bè mảng mong manh, liệu có an toàn mà về với gia đình anh không? Bên kia cánh đồng, nơi hai năm về trước chồng cô bị nạn, không gian như còn lưu lại tiếng gọi “cứu... cứu”, âm thanh như tiếng kêu của một loài chim ăn đêm. Cũng từ phía cánh đồng ấy, bỗng đâu vang lên tiếng kêu éc éc của con chim lợn đệm vào, như báo trước một điềm gở. Cô gái nằm quay vào bờ liếp ôm mặt khóc nức nở. Trong bụng cô, cái mầm sống nhỏ nhoi mà chàng trai vùng xuôi vừa theo dòng nước gửi lại đã bắt đầu cựa quậy…
Ba năm trôi qua, thằng bé trai kháu khỉnh, giọt máu của chàng trai gửi lại, cất tiếng bi bô bên mẹ, nhưng cha nó thì vẫn biệt vô âm tín cùng với lời thề sẽ quay trở lại. Không biết anh ta quên lời thề với ông bà Phê và người vợ trẻ hay đã bị dòng thác lũ hung dữ dìm xuống đáy sông sâu rồi… 
*
Đó là một buổi chiều cuối xuân, đang độ tiết tháng ba, ngày mà gần hai mươi năm trước, chàng trai bị rắn độc cắn được cha con ông già bị bệnh hủi cứu sống, từ biệt họ, về xuôi. Nước sông ở đoạn này đang vào mùa đông ken. Phía trên ngọn thác Cùng Cốc, tiếng nước chảy trong veo, vẳng xa lúc thăng lúc trầm như tiếng nhạc. Dọc hai bên bờ sông, hoa gạo nở bung, rực đỏ cả một khoảng trời. Có hai mẹ con người đàn bà từ dưới bờ sông bước lên. Họ tìm đúng vị trí của ngôi nhà ngày trước, ngồi bên nhau như đợi một ai đó. Người mẹ đã luống tuổi, mái tóc trên đầu chị đã có nhiều sợi bạc. Cảnh vật nơi đây hoàn toàn thay đổi. Cánh đồng ngày xưa đầy rắn độc đã được san ủi, mở rộng đến tận phía chân núi. Dưới chân ba ngọn núi, những ngôi nhà vừa mới xây, có vẻ như một xóm làng nào đó vừa tái định cư. Hai mẹ con ngồi ở vị trí ấy, cùng nhìn sang phía bên kia sông, nơi có ngôi đền thờ Thủy Thần tọa lạc dưới chân dãy núi đá. Ngọn núi có vách dựng đứng hình cánh buồm, chắn ngang một khoảng trời trông xa như một cánh buồm no gió. Ngôi đền thờ Thủy Thần ấy đã có từ mấy trăm năm trước. Năm tháng trôi qua, ngôi đền vẫn được dân quanh vùng chăm sóc, nghi ngút khói hương. Chắc chắn rằng, người đàn bà ấy đã xác định đúng vị trí này, nơi mà hơn hai mươi năm trước, gia đình bà đã dựng nhà sinh sống. Không gian như bị nhuốm đỏ bởi những bông hoa gạo từ trên cành cao rơi xuống. Chiều đã muộn. Khi hai mẹ con nhà nọ có ý định xuống thuyền trở về thì trên ngọn cây gạo, bỗng nhiên có một con chim màu vàng tía cất tiếng kêu “kiếu kiếu”, âm thanh mừng rỡ chứ không như tiếng kêu của người bị nạn hơn hai mươi năm về trước như gợi nhớ lại hồi ức xưa khiến chị bồi hồi. Bất ngờ từ phía bờ sông có một người đàn ông đi lên. Ông ta ăn vận quần áo lính đã sờn, từ từ tiến lại phía hai mẹ con. Dưới ánh chiều tà, khuôn mặt đầy nếp nhăn của ông như sáng rực lên. Người đàn bà chăm chăm nhìn ông như bị thôi miên, mặt chị bỗng dưng tái đi, chị thét lên một tiếng, hai chân bủn rủn như muốn khuỵu xuống. Chàng trai vội vàng chạy lại đỡ lấy mẹ. Trong tích tắc, người đàn ông cũng nhận ra người đàn bà đó là vợ mình, cho dù đã xa nhau hơn hai chục năm. Ông chạy lại ôm ghì lấy vợ, cả hai người đứng lặng yên dưới ánh chiều, giữa mùa hoa gạo đỏ rực bên sông…
*
Đêm ấy, chị kể cho anh nghe tường tận khúc nôi của đời chị. Chị bảo, sau khi anh lên bè trôi theo dòng sông về xuôi, ba năm sau, cha mẹ và chị được Nhà nước đưa vào trại phong để chữa bệnh. Căn bệnh quái ác tưởng vô phương cứu chữa lúc này đã có thuốc đặc hiệu điều trị. Vì khi chia tay, gia đình ở cách biệt với dân bản, không biết được chính xác ngày tháng, mà chị chỉ nhớ năm ấy đang là mùa hoa gạo. Những cây gạo cổ hai bờ sông bung hoa đỏ chói. Hàng đàn chim sáo bay đến đậu làm trĩu cả cành, khiến những bông gạo đỏ rực đã tàn, rơi lả tả xuống gốc cây như những chùm hoa lửa. Không nguôi nỗi nhớ chồng, nên năm nào cũng thế,  mỗi khi đến mùa hoa gạo nở, chị lại tìm về nơi ngôi nhà xưa, hy vọng người chồng của chị nếu còn sống cũng nhớ đến mà tìm về. Vậy mà lần này, niềm tin mãnh liệt về một cuộc gặp gỡ với người chồng thân yêu đã thành sự thật.
Còn anh, anh kể cho chị nghe những tháng năm vất vả, truân chuyên của cuộc đời mình. Năm ấy,  khi anh về đến quê nhà, cha mẹ anh mừng lắm. Anh đã kể cho cha mẹ nghe về việc anh bị lạc xuống cánh đồng đầy rắn độc và bị nạn. May được cha con một gia đình cứu giúp thoát nạn. Anh đã yêu và lấy cô con gái nhà ấy làm vợ. Năm ấy, cũng là năm chiến tranh lan ra miền Bắc, anh vào quân ngũ, dấn thân nơi trận mạc gần chục năm trời. Không thể gửi thư tin cho chị, và có gửi thì thư cũng không đến tay. Khi bị thương, anh được xuất ngũ thì cha mẹ anh đã qua đời, cô em gái đã lấy chồng, cậu em trai lại vào lính. Thương nhớ người vợ tội nghiệp, anh tìm đến nơi ở xưa thì chỉ còn lại nền đất mốc meo, rêu phong phủ kín. Nhưng anh vẫn nuôi một niềm tin, là nếu vợ anh còn sống, cứ đến mùa hoa gạo cũng sẽ tìm về chốn cũ may ra gặp được nhau. Với một niềm tin như thế, hàng năm, cứ đến tháng ba, mùa hoa gạo, anh cũng bươn bả tìm về chốn xưa mong gặp được người vợ hiền, ân nhân của cuộc đời anh. Anh vẫn nhớ như in con đường nhỏ từ bờ sông đi lên, phía bên kia sông là ngọn núi hình cánh buồm, dưới chân núi, có đền thờ Thủy Thần. Còn ngôi nhà của gia đình vợ, phía bên phải là cây gạo cổ, gốc rễ xù xì, có một cành lớn vươn ra phía bờ sông. May thay, tấm lòng của vợ chồng anh, trời phật đã phù hộ…
          

  3-2023
               T.T


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 114
 Hôm nay: 1784
 Tổng số truy cập: 7640861
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa