Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /     /   Dọc đường thơ ấy gặp những người lính trấn ải lưu đồn (Bút ký - kỳ 1)
Dọc đường thơ ấy gặp những người lính trấn ải lưu đồn (Bút ký - kỳ 1)

Ở đời, ngẫm cho cùng, đi lại những con đường mà các thi nhân đã đi là cách làm cho cuộc sống trở nên thú vị hơn bao giờ hết. Tôi đã dành nửa đời người để đi theo con đường mà một thi sĩ tài danh đã đi qua, nhưng mỗi lần cất bước trên con đường thơ ấy, tôi vẫn thấy mình đi mãi không hết hành trình chứa đựng những câu chuyện huyền thoại về một đội quân “kể mãi không hết những điều kỳ lạ”. Mới hay con đường Tây Tiến năm xưa vốn trập trùng xa ngái, lại càng trở nên xa ngái trập trùng bởi những câu thơ vô tiền khoáng hậu của nhà thơ Quang Dũng. Hóa ra, bên cạnh con đường hiện thực được bắt đầu từ đình làng Hoàng Xá (Ứng Hòa, Hà Tây cũ), ngược lên Hòa Bình, qua Sơn La, đến Thanh Hóa, sang Lào, rồi quanh quẩn nơi đầu nguồn sông Mã, còn có một con đường nữa, nằm trong tâm tưởng người yêu thơ. Đường hiện thực đi mãi rồi cũng hết, nhưng đường tâm tưởng thì chẳng bao giờ có điểm kết thúc. Đường tâm tưởng gọi mời con người ta cất bước, nhưng đường hiện thực mới thực sự thử thách đôi chân chinh phục của kẻ lữ hành lãng mạn.   
Cũng phải nói thêm rằng, dẫu là con đường tâm tưởng hay là con đường hiện thực thì con đường mà tôi muốn nói đến là con đường của đoàn binh Tây Tiến có chàng đại đội phó Quang Dũng tham gia. Nói thế là bởi vì, trước đó từng có một đoàn binh Tây Tiến khác, sớm rời Hà Nội ra đi ngay sau ngày khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đơn vị Tây Tiến đầu tiên ấy mang tên Đội võ trang trinh sát miền Tây, gồm 200 thanh niên Hà Nội đã ngược Sơn La, qua Sầm Nưa, đánh một trận Mường Lát tưng bừng, vỗ mặt đơn vị lính Pháp đầu tiên vừa lăm le quay trở về từ Vân Nam, Trung Quốc.
Nếu gọi Đội võ trang trinh sát miền Tây là đội Tây Tiến 1 thì Đoàn võ trang tuyên truyền biên khu Lào - Việt có chàng Đoàn phó tên là Quang Dũng là đội Tây Tiến 2. Sau này sẽ còn những đội Tây Tiến khác nữa, hợp nhất lại ở quy mô trung đoàn, khi ấy cuộc kháng chiến chống Pháp đã chuyển sang một giai đoạn mới.
Con đường mời gọi tôi đi suốt một đời cầm bút mà tôi đang nói đến ở đây, chỉ là con đường mà Đoàn võ trang tuyên truyền biên khu Lào - Việt đã đi qua mà thôi. Con đường ấy đã được Quang Dũng huyền hoặc hóa bằng thơ ca, để tôi cũng nhiều lần lạc vào những mê lộ biên viễn, ngỡ như không thể tìm được lối ra. 
Lần này, tôi muốn đưa cảm xúc của mình vượt thoát qua những mê lộ miền Tây xứ Thanh, hòng minh định một cung đường thơ vốn bao phủ quá nhiều giai thoại. Tôi đi cùng Hồ Ngọc Thu, một người cũng từng bị những câu thơ của Quang Dũng “ám” suốt từ những năm còn ngồi trên ghế phổ thông. Thu người huyện Nghi Sơn, tuổi Quý Sửu, cầm tinh con trâu. Hơn 30 năm tuổi quân, cả đời sống với đường biên, cột mốc, mang lon Thượng tá quân hàm xanh nhưng nhìn Thu mảnh khảnh, thư sinh như một thầy giáo cắm bản vùng cao. Trước khi về làm phó Chủ nhiệm Chính trị Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Thu là chính trị viên của Đồn Na Mèo. Na Mèo bây giờ thuộc huyện Quan Sơn. Nhưng ngược quốc lộ 47 lên đến ngã ba Đồng Tâm, chúng tôi không rẽ vào đường đi Quan Sơn mà bập vào quốc lộ 15A đi huyện Quan Hóa. Đi đến cuối đường 15A thì thị trấn Hồi Xuân hiện ra trong mắt tôi. Cái thị trấn nhỏ tí, chừng hai ngàn hộ dân bám theo đường quốc lộ với 8 dân tộc Kinh, Thái, Mường, Hoa, Dao, Thổ, Tày, Nùng sinh sống đã không còn một mái nhà lợp ngói nào nữa. Thấy tôi cầm máy ảnh đi tới, đi lui suốt chiều dài ngắn ngủi của thị trấn như tìm một điều gì đã khuất lấp, Thu hỏi: “Nhà văn tìm gì?”. Tôi bảo: “Tìm một mái ngói thật xưa cũ”. Thu lắc đầu bảo: “Không còn đâu”. Đúng là không còn thật. Chỉ có những ngôi nhà xây bằng gạch, đổ mái bằng, lợp mái tôn hoặc mái fibro xi măng. Tôi muốn tìm lại hình ảnh từng làm cho những người lính Tây Tiến ôm nhau sung sướng sau ba tháng chôn mình trong những hẻm núi bọc sương. Nhưng tuyệt không thấy một mảnh ngói nào sót lại ở thị tứ vùng biên này. Thu hỏi: “Những mái ngói kề nhau ở thung lũng này có gì đặc biệt?”. Tôi bảo, trong hồi ký của mình, thi sĩ xứ Đoài kể rằng, những người lính ấy lần đầu xa nhà, xa phố, mấy tháng trời chỉ trông thấy màu xanh, chỉ trông thấy mây và những đỉnh núi, chỉ leo lên những dốc ngược đứng, chỉ sống trong những căn nhà sàn lúc nào cũng thoảng mùi phân trâu, nay họ thấy nhà gạch nóc ngói như thấy lại phố xá, như được về với miền xuôi, nên đã nhảy cẫng lên, mừng vui khôn xiết. Nhưng rồi họ đã thoáng thất vọng khi biết đây chỉ là một thị tứ vùng biên. Dân số lại đa phần là người Hoa và người theo đạo Công giáo. Nghĩa là lại phải làm lại từ đầu công tác vận động tuyên truyền. Đồng bào người Hoa đóng cửa không tiếp bộ đội Việt Minh, bà con giáo dân chỉ biết đến Chúa và cha xứ, không biết đến Cụ Hồ. Đêm diễn kịch đầu tiên đồng bào không đến xem. Muốn tiếp cận và vận động bà con giáo dân thì phải tiếp cận cha xứ. Thế là chờ đúng thời điểm cha xứ làm lễ cho các con chiên ngoan đạo thì tiếng kèn Tuba ồm ồm vang lên, rồi tiếng trống Grosse caisse đệm vào thình thình như sấm, rồi kèn Trombone, kèn Saxophone, kèn Clairon, kèn Clarinette… cả bốn chục nhạc cụ cùng chơi bài Ave Maria, bài Mừng Chúa giáng sinh và một số bài mới sáng tác của Hội Thánh Việt Nam. Bà con giáo dân từ ngạc nhiên chuyển sang cảm động, từ cảm động chuyển sang yêu quý những người lính của Đoàn võ trang tuyên truyền biên khu Lào - Việt lúc nào không hay. Thế là bà con mời bộ đội Cụ Hồ vào nhà, mang quần áo đến cho bộ đội mặc, đưa gạo, thịt, hoa quả đến cho bộ đội ăn để lấy sức diễn kịch. Đêm kịch nào bà con cũng đến xem đông nghịt. Ngồi hàng ghế đầu bao giờ cũng là ông cha xứ tóc bạc phơ và ông lý sự vụ Hoa kiều đầu hói bụng phệ. Được chừng nửa tháng, khi quân đã khỏe, nhiệm vụ tuyên truyền đã xong, bà con giáo dân và Hoa kiều đã hiểu, đã một lòng ủng hộ công cuộc kháng chiến kiến quốc của Chính phủ Cụ Hồ, thì những người lính Tây Tiến lại tiếp tục lên đường. 
Rồi các cụ đi đâu? Tôi quay sang hỏi Thu: “Anh qua lại đất này nhiều, có thấy quanh đây có cái bến sông nào không?”. Thu lắc đầu: “Sông Mã và sông Luồng phía trên này dốc và hung hiểm lắm, dân không qua lại bằng thuyền, làm gì có cái bến đò nào!”. Tôi hỏi: “Thế lên Mường Lát đi lối nào?”. Thu chỉ cho tôi chiếc cầu ở cuối thị trấn, nằm vắt qua sông Mã, cũng là điểm cuối cùng của quốc lộ 15B để nối vào với tỉnh lộ 520 đi lên cổng trời Mường Lát. Tôi đứng giữa cầu chỉ xuống bờ đông, bảo: “Đúng rồi”. “Cái gì đúng rồi”, Thu nhìn tôi ngơ ngác. Đây chính là bến Hồi Xuân. Khi những người lính Tây Tiến chuẩn bị rời bến này để sang bờ tây, họ đã vô cùng bất ngờ khi thấy một hàng dài người già, phụ nữ và trẻ em kéo từ thị trấn Hồi Xuân ra đây tiễn “các anh lên biên giới công tác”. Trong đoàn người ấy có một thanh niên lực lưỡng gánh theo hai thúng quà nặng trĩu để tặng cho bộ đội Tây Tiến. Trong gánh quà ấy, quý giá nhất là 2000 viên ký ninh còn nguyên trong hộp sắt tráng bạc. Chỉ có những Hoa kiều giỏi buôn bán mới kiếm ra được số thuốc quý hơn vàng như thế. Hồi Xuân có lẽ là điểm dừng chân thư thái và yên bình cuối cùng của đoàn binh Tây Tiến. Bắt đầu từ đây, họ liên tục phải đối mặt với những “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời”… 
Đúng là đèo dốc quanh co, cứ lên mãi, lên mãi, núi nối tiếp núi, đèo nối tiếp đèo, nhìn sang trái chỉ thấy những vách xanh lừng lững chắn ngang tầm nhìn, quay sang phải vực sâu thăm thẳm, mở ra những lòng thung trải dài ngút ngát. Lúc đầu tôi còn đếm, một đèo, một đèo, lại một đèo, một dốc, hai dốc, lại ba dốc, nhưng rồi tôi chả làm cái công việc vô nghĩa ấy nữa. Đếm thế khác gì đếm có bao nhiêu cái ngã tư có đèn xanh, đèn đỏ ở Hà Nội. Cho tới khi chúng tôi dừng lại dưới một gốc đa trên đỉnh Pu Noọc Coọc thì Thu bảo tới cổng trời Mường Lát rồi nhà văn ạ. Trước mắt tôi, nhìn về biên viễn phía tây mở ra cả một khoảng mênh mông trời xanh mây trắng. Viền theo đường chân trời là núi đồi nhấp nhô, uốn lượn, thấp thoáng những bản làng chênh vênh, nép mình bên khe núi. Cúi xuống sườn đồi ngay dưới chỗ tôi đứng là rải rác những căn nhà mái tôn vách gỗ của những người Mông bản Khằm nằm vắt ngang cổng trời. Tôi nói với Thu, nhà thơ Quang Dũng chọn địa danh nào đưa vào thơ thì địa danh đó hóa thành bất tử. Ông không đưa Hồi Xuân vào trong bài Tây Tiến có lẽ vì cái tên đó không đặc trưng miền núi lắm, đã là một thiệt thòi cho thị trấn bé nhỏ xinh đẹp ấy rồi, nhưng cổng trời với những địa danh như bản Khằm cũng không thấy ông nhắc đến thì kể cũng lạ nhỉ?
Thu bảo, thời ấy cái chỗ tôi và nhà văn đang đứng đây không có tên, hoặc mỗi dân tộc gọi nó bằng một cái tên theo kiểu của mình, như đồng bào Thái gọi đỉnh đèo này là Pu Noọc Coọc vậy. Ngay cả mấy chục hộ người Mông kia cũng chưa có mặt ở đây vì họ mới di cư về khu vực này từ năm 1996. Cái tên Cổng Trời chỉ được gọi từ năm 1975, khi đơn vị thanh niên xung phong đầu tiên của Thanh Hóa mở đường lên đến đây. Lại cũng có đồng bào gọi đây là Vùng Trời Thủng, vì nghe nói ngày xưa mưa ở đây kinh khủng lắm. Mưa dầm dề hàng tháng. Mưa như thủng trời vỡ đất. Mưa như nước thiên đình trút cả xuống chỗ này. Mưa khiến nước suối dâng lên đột ngột, cao tới hàng chục mét, đục ngầu, cuộn xiết, chảy đến đâu như cào cấu, moi ruột núi đồi ra đến đấy. Những người lính mở đường qua đây theo miêu tả trong tiểu thuyết “Vùng trời thủng” của nhà văn Kiều Vượng từng bị hổ vồ, trâu rừng đuổi, lợn lòi nhay, rắn độc cắn, ong đất đốt, nứa lao xuống xọc lòi ruột... Cứ thế mà suy ra thì cái thời đoàn binh Tây Tiến qua đây có lẽ cổng trời này cũng chỉ là một đỉnh dốc như bao đỉnh dốc mà họ đã từng đi qua mà thôi. Nếu phải chọn một cái tên dốc để đưa vào thơ thì sẽ không có cái tên dốc nào đáng nhớ hơn hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa, gục lên súng mũ bỏ quên đời”…
Tôi gật gù đồng ý với Thu, nhưng tôi vẫn ngó nghiêng xem liệu có con đường tắt nào bắt vào với cái yên ngựa có tên là cổng trời này không. Không có. Vậy thì hẳn cái dốc ấy nằm dưới lớp đường nhựa ngược đứng mà chúng tôi vừa đi qua để tới đỉnh đèo này. Tôi nghi lắm. Không, tôi chắc chắn. Đúng là con dốc ấy chứ không thể là con dốc khác. Thấy tôi cứ lẩm bẩm như một kẻ mộng du, Thu hỏi: “Nhà văn tìm thấy điều gì à?”. Tôi gật đầu: “Cha con ông Sự”. Thu lại hỏi: “Cha con ông Sự nào?”. Tôi bảo: “Trong đội nhạc binh”. Thu nhíu mày: “Đội nhạc binh nào?”
Ừ, có lẽ Thu không biết trong Đoàn võ trang tuyên truyền biên khu Lào - Việt từng có một đội nhạc binh. Đoàn được tổ chức theo quy mô đại đội. Trung đội đầu tiên xuất quân từ đình Hoàng Xá, khi lên đến Hòa Bình thì hội quân với trung đội thứ hai, đó là hơn ba chục anh lính kèn từng phục vụ cho Tòa thống sứ Bắc kỳ. Sau Quốc khánh 2 tháng 9, đội nhạc binh xin tình nguyện phục vụ cho Chính phủ Cụ Hồ tại Bắc Bộ Phủ. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, trung đội nhạc binh được biên chế về với Đoàn võ trang tuyên truyền biên khu Lào - Việt. Thế là hơn ba chục con người, phần lớn đã có tuổi, ôm trống kèn vượt núi băng rừng, nhập vào đoàn quân Tây Tiến. Đây là trung đội duy nhất của bộ đội Cụ Hồ có lễ phục thống nhất, ngoài trang phục quân nhạc, tất cả đều đi ghệt và xỏ găng tay trắng. Đọc hồi ký của nhà thơ Quang Dũng, tôi cứ ấn tượng mãi với hình ảnh ông Sự chơi kèn Tuba ngồi tắm bên bờ suối, có một tay trống trẻ đứng đằng sau kỳ lưng cho ông. Rồi khi đoàn binh Tây Tiến vượt qua con dốc “cao chừng hai ngàn thước”, thì ông Sự mệt quá, ngồi nghỉ lại trên một mỏm đồi, tay trống trẻ tuổi lại hì hụi quỳ bên cạnh bóp chân cho ông. Tại sao lại có tình cảm ấy ở những người lính kèn? Vì họ là hai cha con. Năm ấy ông Sự 45 tuổi, cậu con trai 22 tuổi. Trước ngày Hà Nội nổ súng, cậu con trai tha thiết bảo ông bố ở lại thủ đô, công cuộc Tây Tiến gian khổ để cậu nhận lãnh. Nhưng ông bố bảo, trong đội còn có người cao tuổi hơn ông mà họ vẫn hăng hái lên đường, chẳng lý nào ông lại ở nhà. Hơn nữa nếu không có sự trường hơi của ông thì ai có thể thổi được chiếc kèn Tuba “cao bằng thằng bé lên 9” để hòa tấu cùng hơn bốn chục nhạc cụ của đội nhạc binh “hoành tráng nhất Đông Dương” lúc ấy. Thế là cậu con trai, tay trống cái cự phách của đội nhạc binh đành chiều ông bố, tạm biệt mẹ và các em ở nhà, cùng cha lên đường Tây Tiến. Càng đi càng thấy thương cha, mỗi khi leo dốc, vượt đèo, mỗi khi dừng lại nghỉ ngơi bên bờ suối vắng, mỗi khi hắt hơi sổ mũi ở một bản làng heo hút, cậu con trai ông Sự lại ngồi cạnh chăm sóc cha. Cái hình ảnh phụ tử chi binh ấy nó ám ảnh tôi kinh khủng. “Thế nên nhà văn muốn tìm cái con dốc nào mà hai cha con ông Sự đã ngồi bóp chân cho nhau chứ gì?”, Thu nói. Tôi bảo, đúng thế, nhưng không chỉ bóp chân đâu, trong một lần bị giặc đuổi, hai phần ba quân số bị sốt rét phải rút chạy lên đỉnh dốc này. Chính là cái dốc này chứ không thể là cái dốc nào khác. Không hiểu sao tôi cứ tin thế. Cả một bản người Mông cũng chạy theo. Càng chạy thì Tây càng đuổi riết. Mà thằng Tây nó khỏe, nó đuổi theo người ốm rất nhanh. Cuối cùng anh em bảo nhau không chạy nữa, phục ở chỗ đỉnh dốc, chiến đấu với nó đến cùng, có chết thì cùng ôm nhau nhảy xuống vực mà chết chứ chạy để nó bắn chết từ phía sau lưng thì còn đâu cái oai phong của quân Tây Tiến nữa. Thế là hai anh đội viên nằm chắn ngang con dốc làm bệ tì. Mấy đồng chí khác đặt súng trường lên, rê nòng súng về phía cuối con dốc. Cứ thằng Tây nào thò lên là nổ súng. Các đồng chí khác cũng tìm gốc cây, vách đá thủ sẵn lựu đạn trong tay, nếu Tây tràn lên đỉnh dốc thì sốt run người cũng cố lao ra ôm chúng nó rút chốt cùng chết. Ông Sự cũng không chạy nữa. Ông mang cây kèn Tuba ra thổi. Con trai ông thấy thế cũng kê lại ngay ngắn chiếc Grosse caisse, rồi cứ thế cầm dùi nện liên hồi vào mặt trống. Những người lính kèn khác bị những cơn sốt rét làm cho mất máu, bước đi liêu xiêu cũng tự động lấy kèn ra thổi. Còn chút hơi tàn cũng thổi. Thổi để động viên chiến sĩ lâm trận. Thổi rồi chết gục bên cây kèn đồng trên đỉnh dốc mù sương này cũng thỏa nguyện. Tiếng súng nổ từ chiều đến tối. Tiếng kèn trống cũng vang lên không dứt, xao động cả hoàng hôn biên ải. Thằng Tây sau nhiều lần xung phong không vượt qua được đoạn đèo, lại thấy xác đồng bọn chết đè lên nhau ở phía cuối con dốc, liền hò nhau rút chạy. Khi những tiếng xì xồ xa dần, lính Tây Tiến ta mới ôm chặt lấy nhau, thở ra những hơi sương sung sướng vì đã đuổi được thằng Tây giữa cơn sốt ác tính. Cha con ông Sự thu trống, cất kèn, cùng bà con thu dọn chiến trường. Mọi người gọi mấy đồng chí nằm chắn ngang con dốc làm bệ tì dậy để dìu nhau về một bản người Mông gần đấy nghỉ ngơi. Nhưng gọi mãi không ai chịu dậy. Ông Sự chạy đến đặt tay lên mũi hai người đồng đội. Lỗ mũi họ lạnh ngắt. Họ đã tắt thở tự bao giờ…
“Thảo nào trước khi lên đây, tôi thấy nhà văn có vẻ mặn chuyện với anh Vĩnh”, Thu nói sau khi lặng người đi bởi câu chuyện tôi kể.
Đúng vậy, trước khi cùng Thu ngược Mường Lát, tôi muốn biết trên cung đường này còn không những trường hợp “phụ tử chi binh” như cha con ông Sự năm xưa. Khi tôi nêu suy nghĩ đó với các anh ở Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa thì thật ngẫu nhiên tôi lại được biết đồng chí Đại tá Đỗ Ngọc Vĩnh, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng tỉnh cũng chính là… con trai của một người lính biên phòng. “Hồi nhỏ, tôi thần tượng ông bố tôi lắm nhà văn ạ” - Đại tá Vĩnh kể - “Những năm tháng bé thơ, được bố cho lên doanh trại chơi, ở cùng bộ đội tôi thích lắm, chỉ mong sau này lớn lên cũng được giống như các chú, các anh. Hồi đó tôi không lý giải được, nhưng có một cái gì đó nghiêm ngắn, tự lập, nam tính, can trường… tỏa ra từ những người lính, khiến họ hấp dẫn tôi vô cùng. Vào cấp ba là tôi toàn mặc đồ lính. Gọi là đồ lính nhưng thực chất là quần áo được may từ những tấm vải màu xanh da trời, rất bền và sạch. Thời đó gọi là “áo bay”. Oách lắm. Có cảm giác như mình mạnh mẽ, người lớn, và trưởng thành hơn các bạn. Hết cấp ba tôi thi vào Đại học Biên phòng. Đúng là thích gì được nấy. Mặc áo lính liên tục từ đó đến giờ. Thấm thoát cũng hơn ba mươi năm rồi. Cũng phấn đấu lên được quân hàm Đại tá bằng ông cụ rồi”. 
“Ông cụ” nhà anh Vĩnh thời còn công tác được coi là pho sử của biên phòng xứ Thanh. Sau khi giữ vị trí Chủ nhiệm Chính trị Bộ đội Biên phòng tỉnh thì cụ chuyển ra ngoài Cục Chính trị Bộ Tư lệnh Biên phòng, chuyên viết sử cho lực lượng, và về nghỉ hưu với quân hàm Đại tá. Biết tôi đắm đuối với cung đường Mường Lát phía trước, Chỉ huy trưởng Vĩnh bảo, còn nhiều trường hợp phụ tử chi binh (cha con cùng là lính) đang sống sau những dãy núi bọc sương ấy, hơn thế, còn có cả những cặp huynh đệ chi binh (anh em cùng là lính) cũng đang ngày đêm sống bên đường biên cột mốc. Nhà văn cứ lên đường đi, cứ đến với các đồn trên đó đi, sẽ bắt gặp rất nhiều hóa thân của những người lính Tây Tiến năm xưa… 
(Còn tiếp)
              

N.Đ.T


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 176
 Hôm nay: 7006
 Tổng số truy cập: 12827999
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa