VŨ QUANG TRẠCH
Miền sông trăng
Truyện ngắn dự thi
Làng Yên Giang, ở vùng đất Tây Nam xứ Thanh. Thế làng cong hình dấu hỏi, phía trước là vụng sông Sung, sau lưng dựa dải đồi thoai thoải. Giang Ngoại, xóm nhỏ ở ngoại đê chỉ còn hơn mươi nóc nhà. Giang Nội, Giang Hạ ở trong đê. Từ lâu đã lưu truyền câu chuyện: Vì muốn cho làng yên ổn những mùa lũ lụt nên người xưa lấy tên là Yên Giang. Thế nhưng mùa lũ nào Giang Ngoại cũng bị cuốn đi mấy chục bao thóc, dăm mái bếp, đàn lợn, bầy gà... Toàn hộ khó khăn, chả có điều kiện chuyển vào nội đê. Xã mới Tam Giang đã có kế hoạch đưa Giang Ngoại sang triền đồi nhưng chưa đủ mặt bằng và kinh phí.
Trụ sở ủy ban hôm ấy huyên náo hơn. Chả là các gia đình, cá nhân hỗ trợ thêm cho xã xóa nhà tạm, nhà dột nát đến để đăng ký. Cán bộ xã phấn chấn:
- Với tấm lòng của bà con, xã ta lần này chắc sẽ chuyển được hết các hộ Giang Ngoại sang triền đồi, xóa được nhà tạm, nhà dột nát. Bây giờ mời bà con hảo tâm. Ông Tâm hiến đất, xin ông trước ạ!
Ông Tâm đi lên, dáng người tầm thước chắc khỏe, da ngăm đen, tóc đã hoa râm, mặt điểm những nốt đồi mồi xám, đầy vẻ kiên nhẫn. Công chức xã tươi cười:
- Thưa ông! Ông hiến mấy sào đất quý hóa quá, xã rất hoan nghênh, để đảm bảo thủ tục, xin ông cho xem qua đăng ký kết hôn của ông bà ạ!
Nghe thế ông Tâm khẽ cúi xuống trầm giọng:
- Báo cáo ủy ban, vợ chồng tôi không đăng ký kết hôn. Chúng tôi sống với nhau hết chiến tranh đến hòa bình, các con đã nên vợ nên chồng. Thương nhau là quý rồi - nét mặt ông đầy vẻ xa xăm...
- Vậy chờ chúng tôi xin ý kiến chủ tịch. Mời ông cứ về nghỉ, xã sẽ gặp sau ạ!
Ông Tâm chào bà con rồi ra về. Bước đi gợi niềm xót xa, thăm thẳm miền hoài niệm...
*
Bà con đều biết ông Tâm là bệnh binh. Trước kia gia đình bị quy thành phần nên cả nhà rời làng, dắt díu nhau về đây. Được bên ngoại cho mái lá ba gian ọp ẹp, mẹ con chùm xúm nuôi nhau. Phập phù bữa thiếu, bữa đói trông chờ ở cánh đồng Lênh. Chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, ông vào công ty thuyền nan vận tải rồi sang bộ đội. Những khi rảnh rỗi, bà con thường ghé nhà ông nghe chuyện thời đánh Mỹ. Họ cảm phục ông lắm...
Ở thuyền nan, mặt trận “Người chiến sĩ không đeo sao, chiến đấu không chiến hào” khốc liệt chả kém chiến trường. Nam, nữ cùng gian nan, bom đạn, thiếu thốn như nhau. Cái không gian chỉ dăm mét vuông, nơi con thuyền trên kênh, trên sông không được phép có một mẩu thép, một làn khói, một loáng nón trắng, cho Tâm nhận ra những cơ cực mình từng chịu đựng thực chưa thấm vào đâu.
Sáng ấy, khi đội thuyền Nông Bình đến đầu kênh Son thì có lệnh dừng lại vì đêm qua, đội Tĩnh Sơn bị bom, mấy thuyền gạo đắm, đoạn kênh trước mặt chưa thông. Tù chân, Tâm rời thuyền lên bờ, bắt gặp Dung tóc vắt dài trước ngực cũng vừa dưới thuyền lên, đang bước men vệ cỏ, Tâm cất lời: “Chào Dung! Đi mấy chuyến rồi, cùng đội mà chưa có thời gian trò chuyện”. Hai người ngồi xuống vệ cỏ, hỏi nhau về gia đình, làng xóm. Thì ra Dung đã đi học qua cánh đồng Lênh. Nhìn lọn tóc Dung buộc bằng mẩu dây khâu bao bì, Tâm thương lắm. Chiến tranh tàn độc quá, một chiếc cặp tóc cũng ẩn chứa hiểm nguy khi gặp bom từ trường, nó nhăm nhe cướp đi những tươi xinh của người con gái. Rồi họ ý tứ chào nhau về thuyền, mà như còn hẹn...
Những chuyến hàng sau đó, Tâm gặp Dung nhiều hơn, tình cảm sâu đậm thêm. Anh chủ động hẹn hò. Dung băn khoăn: “Chúng mình suốt năm tháng trên sông, cũng chả biết ra sao anh nhỉ...”. Đã quen chịu đựng, Tâm bình thản: “Chắc chả sao đâu Dung! Thương nhau là quý rồi”. Ý tứ liếc Dung, sau đó Dung nhận lời yêu thương. Một hôm chờ con nước để vào kênh Than, khi Tâm đang trao cho Dung cuộn len đỏ làm dây buộc tóc, chị đội trưởng đi qua hóm hỉnh: “Hạnh phúc quá nhỉ, nhưng hai người chờ khi nào chở đủ gạo vào chiến trường rồi mới được hôn nhau đấy!”. Nói vậy nhưng chị biết đôi này đã “chín mọng” rồi. Dung bẽn lẽn giấu đi nụ cười. Từ đó thuyền Tâm luôn theo sát thuyền Dung. Dung khía kháy: “Công ty này có người sướng thật đấy, lúc nào cũng được nhìn cái cổ trắng ngần...”. Tâm dí dỏm: “Đâu phải bây giờ mới nhìn, được nhìn cái cổ ấy từ thời có người đi học qua đồng Lênh cơ, người đó có biết không...”.
Những đội thuyền nan chở gạo vào Hà Tĩnh, Quảng Bình tranh thủ con nước, liên tục suốt ngày đêm trong đạn bom ác liệt. Hôm ấy, khi thuyền của Tâm, của Dung vừa nhận xong gạo, hai người lên bờ kênh... Tâm vuốt tóc Dung, mắt cô rạng ngời hạnh phúc: “Anh Tâm ạ, đi xong chuyến này, mình về quê đăng ký kết hôn”. Rồi cô chân thành: “Chúng mình có nhau cả đời anh nhé!”. Tâm lặng người quay sang ôm Dung vào lòng... Đúng lúc ấy từ thuyền của Dung, Ngoan gọi với lên: “Chị Dung ơi, em đau bụng quá, chị vào dân xin lá ích mẫu cho em với!”. Khi Dung về đến gần thuyền thì có tiếng máy bay gầm rú. Chưa kịp nhìn xem từ hướng nào thì đã thấy chúng bổ nhào bắn rốc két. Tâm chỉ kịp hét lên: “Dung, nằm xuống ngay!”. Dung chạy bổ xuống thuyền để chui vào hầm gạo nhưng không kịp. Tay chới với buông nắm lá ích mẫu rồi bám mép thuyền. Một mảnh rốc két lia ngang cổ Dung... Từ hầm gạo nhào ra, Ngoan rú lên... Mái tóc cô sổ bung trên gương mặt nhợt nhạt của Dung. Tâm nhảy vội bế Dung lên bờ, bông băng quấn chặt nhưng vết thương hiểm quá, máu lẫn bọt khí từ cổ họng vẫn cứ chảy ra, Dung tắt thở... Nước mắt Tâm hòa vào máu Dung. Anh quá đau đớn nhìn dưới cổ Dung máu nhuộm đỏ cát, mùi khói màu da cam chết chóc chưa tan. Tâm khóc không thành tiếng... Dường như tạo hóa luôn muốn con người càng đớn đau càng phải sống.
Thấm thoát đã ba năm kể từ ngày Dung hy sinh, Tâm và Ngoan nhiều lần suýt chết cùng những con thuyền nhỏ nhoi trước sông nước mênh mông, đạn bom vây bủa. Rồi họ đến với nhau như là số phận. Hai người chỉ xin phép công ty mà không đăng ký kết hôn, không làm đám cưới, phần vì chiến tranh đi lại nguy hiểm, phần vì cả hai đều không nỡ... Dung như vẫn còn bên họ, còn ánh mắt, lời nói, cử chỉ hàng ngày dành cho người yêu và người em mến thương. Tâm về thưa chuyện với gia đình Ngoan: “Thưa bố mẹ, thời chiến, đi lại xa xôi, nguy hiểm, chúng con xin phép làm thủ tục ở công ty thôi ạ”. Cực chẳng đã, bố mẹ Ngoan đành vậy.
Ngoan về làm dâu nhà Tâm, lụp xụp ba gian lợp lá. Vợ chồng anh cả ở gian bên trái, gian giữa đặt chõng tre cho mẹ, gian phải ngăn đôi, vợ chồng anh thứ hai ở nửa gian, còn nửa gian vợ chồng Tâm ở. Vách ngăn là mấy mảnh cót cũ. Tài sản chả có gì, Tâm mang từ thuyền nan về một chiếc vại sành, vài cái xoong bị bom làm cho méo mó. Chưa có giường, phải lấy lá chuối khô lót xuống nền đất. Làng xóm hỏi, bảo đã làm thủ tục ở đơn vị. Rồi Ngoan bị sức ép của bom, được về nghỉ chế độ.
*
Tâm ngồi im lìm bên bờ sông Nấp, cây cỏ tơ tướp trong triền miên bom đạn đang kỳ hồi sinh. Những chiếc lá mềm lao xao lay chạm bờ vai. Đã mấy năm rồi... Tâm với tay ngắt những chiếc lá thả xuống dòng sông. Lững lờ, nán níu rồi từ từ ra khỏi bờ, nhẹ trôi loang loáng theo mấy khóm lục bình. Anh nhìn về phía núi Voi, ở đó mảnh trăng non vừa chao lên tựa chiếc thuyền nan trên nền trời xanh mơ. Chiến tranh phá hoại miền Bắc đã dừng lại, thuyền nan hoàn thành nhiệm vụ. Ngày mai, mấy trăm đồng đội mỗi người một nơi. Sẽ có người vào bộ đội, đi học các trường chuyên nghiệp, về các công ty... Tâm chống chếnh, nhớ thương, tiếc nuối một khoảng đời qua đi, làm sao trở lại. Bao nhiêu đồng đội ngã xuống nơi bến Ghép, kênh Than, kênh Sắt, kênh Son, cầu Cấm... Những người vĩnh viễn để lại tuổi thanh xuân nơi lòng kênh, lạch sông, cồn cát. Nhớ tiếc, xót xa. Tâm sẽ vào quân ngũ, sẽ đi đến nơi mà bao nhiêu bè bạn cùng trang lứa đang kiên gan cầm súng. Lại tiếp tục hy sinh xương máu vì hòa bình, độc lập tự do.
Miên man dòng suy nghĩ, mảnh trăng cứ nhẹ buông trước mắt anh, trong khoảng xanh ảo diệu xa xăm, lại như hiện hữu trong sâu thẳm cõi lòng. Đơn côi mà ửng lên sáng rạng, bên trời mà thao thiết khôn nguôi. Có lẽ đồng đội cũng như Tâm, họ cũng có miền trăng để an lòng, tin yêu mà bước vào chặng đường mới, chặng đường sức vóc thanh xuân khi đất nước đang còn giặc giã binh đao...
Hôm sau, ban chủ nhiệm công ty thông báo: Công ty sẽ giải thể, ai có nhu cầu gì cứ đề đạt. Tâm chưa biết đề đạt gì, vợ con ở nhà luôn có mẹ. Trong giai đoạn này của cuộc chiến, tuổi còn trẻ anh không cầm súng, các con sau này sẽ nghĩ gì về bố... Thấm cảm thế, Tâm vững tin chuyển sang bộ đội. Anh xin công ty cho một chiếc thuyền nan bị mảnh bom lia gẫy cạp, dự tính mang về lật úp làm mái bếp để có nơi đun nấu, quanh năm bồ hóng chắc là bền lắm. Ngay chiều ấy, Tâm chèo con thuyền ghé vào bến Nam Độ. Anh cắm sào, buộc thuyền rồi đi vào xóm. Một lúc sau có chiếc xe trâu và chiếc thuyền nan được đưa lên thùng xe, về Yên Giang.
Nửa năm quân ngũ, huấn luyện xong, đơn vị đặc công nước của Tâm chuẩn bị vào chiến trường. Quân lực sao lý lịch quân nhân để bàn giao cho đơn vị chiến đấu. Một đồng đội thì thầm: “Tâm ơi, sao lý lịch của ông địa phương phê nặng thế: Gia đình thành phần, anh trai tự bỏ ngũ, gia đình chưa chấp hành chủ trương, chính sách ở địa phương”. Nghe thế, Tâm lặng người đi, ngực hóp lại, loạn nhịp khó thở... Chán nản quá, anh đi ra, đi vào vô định, đôi mắt vô hồn bâng quơ... Trời ơi, với lý lịch này rồi sẽ ra sao? Liệu chỉ huy, đồng đội có còn tin anh không? Khi không có niềm tin, còn biết làm gì. Trước khi vào chiến trường, được về thăm nhà một tuần. Tâm buồn nản, thất vọng nói với mẹ: “Lý lịch thế này, con ở bộ đội, máu xương, nước mắt, mồ hôi liệu có được nên người”. Mẹ anh bất lực: “Mẹ đàn bà góa, cả đời chả đi đến đâu, mẹ không biết gì cả, nhà nào chứ nhà này con bỏ ngũ mà về thì không có lỗ mà chui xuống đất đâu con. Con thử hỏi cậu coi”.
Tâm tìm đến cậu, cậu nói như đinh đóng cột: “Đời đã thế, bút sa gà chết, phải chịu thôi cháu ơi!” - Tâm buồn lắm, nhưng vẫn cảm thấy còn le lói hy vọng. Liệu anh có như con thuyền nan mỗi khi cuồng sóng, biết trườn lên, băng tới, vượt qua để đến nơi cửa sóng, đầu nguồn.
Hôm sau Tâm đến chào ông giáo Tri. Người làng Yên Giang rất kính trọng ông, vẫn thường hỏi ý kiến ông những công việc, đạo lý đối nhân xử thế ở đời, gỡ rối khi gặp khó khăn, cơ cực. Tâm nói lại toàn bộ câu chuyện cho ông nghe. Ông đanh giọng: “Trường hợp nào chứ trường hợp này bút sa gà chưa chết. Mắt gà còn sáng, chân gà mạnh, cánh gà khỏe. Cháu đừng nặng nề cái lý lịch ấy, cứ vào chiến trường. Nếu cháu hy sinh, mẹ cháu là mẹ liệt sĩ, vợ cháu đi lấy chồng, ấy là lẽ đời. Các con tự hào có bố là liệt sĩ, lấy lại danh dự cho gia đình, dòng tộc. Còn nếu cháu may mắn trở về, lành lặn hay thương tật đó là câu trả lời đàng hoàng, công bằng, tự hào với địa phương, bà con”.
Đêm trước khi trở lại đơn vị, lúc các con đã ngủ, Ngoan gối đầu lên cánh tay, úp mặt vào cổ Tâm: “Anh cứ an lòng lên đường, không phải buồn lo. Người ta có thể phê vào trang lý lịch, nhưng những gì anh dành cho mọi người, tình thương của mẹ, của em và các con dành cho anh thì không ai có thể phê vào đó được”... Nước mắt Ngoan đẫm ướt ngực Tâm.
Tâm trở lại đơn vị để vào chiến trường. Đúng như lời ông giáo Tri và Ngoan đã động viên. Giải phóng hoàn toàn miền Nam, Tâm trở về với bộ quân phục chiến chinh, chiếc mũ cối cùng ba lô cóc. Mẹ anh nghẹn ngào, vợ nhìn anh như không tin ở mắt mình, các con bẽn lẽn. Nhìn mẹ, nhìn vợ con, Tâm ngậm ngùi. Tủi hờn, chịu đựng, dồn nén, nhớ thương đằng đẵng bao năm không một dòng thư. Anh cầm tay mẹ: “Mẹ yếu rồi”... Quay qua nhìn vợ, con, anh nói: “Ta vào nhà đi, từ nay có con rồi, mẹ, em và các con không còn phải lo lắng phấp phỏng nữa”.
Vài ngày sau Tâm mặc quân phục chỉnh tề, ra ủy ban trình giấy tờ xuất ngũ. Mọi người nhìn anh, những ánh mắt đầy cảm phục khi thấy một dũng sĩ diệt Mỹ, có thư báo công về địa phương mà đến nay gia đình còn phải ở ba gian nhà lá. Trình báo xong anh đặt vấn đề với xã xin đất làm nhà để mấy anh em tách hộ, đỡ chung đụng chật chội. Chủ tịch xã hồ hởi:
- Triền đồi mé trên Giang Nội đấy, đồng chí ở mấy sào cứ thoải mái... Đất hoang, xã chưa đủ điều kiện khai khẩn, mai có người xuống cắm cho đồng chí.
*
Sau buổi xã tổ chức nhận đăng ký hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát được mấy hôm, sáng ấy ông Tâm vừa bước ra sân đã nghe có tiếng thất thanh:
- Ới bà con ơi lũ thượng nguồn về, Giang Ngoại ngập hết rồi, bà con mau ra đê xem có nhà ai việc gì không...
Chưa kịp rửa mặt, ông vội ra đoạn đê sau Giang Ngoại. Xóm này bị lũ nhiều nên chả có cây cao, cao hơn vẫn là mấy ngọn tre còi và những nóc nhà. Đứng trên bờ đê nhìn dòng lũ đỏ ngầu thấy ngay nhà bà Côi chỉ còn trơ lại hai mái nhà. Bốn bà cháu đang bám trên đó huơ tay chới với:
- Ới làng ơi, cứu bà cháu tôi với!
Gia đình bà Côi hoàn cảnh lắm. Con trai, con dâu đi làm ăn xa, bà cháu ở nhà, già trẻ chăm nhau.
Vừa thấy ông Tâm đến, chị trưởng thôn vội vàng:
- Bác ơi, bác một đời lăn lộn sông nước, bác cứu bà con Giang Ngoại với ạ!
Không chần chừ ông Tâm nói ngay:
- Lũ đang sắp cường, tình hình này các nhà sẽ ngập hết, nếu chờ xuồng cứu hộ, nhanh cũng phải vài tiếng nữa, mà nước xiết chắc gì xuồng đã lướt nổi. Tôi tính thế này: Ai đó xuống ngay thị trấn mua trăm mét dây ni lông, vài người vào nhà tôi lấy “cái thuyền mái bếp” cùng bai chèo, sào chống, mấy người nữa đến nhà hộ đê của thôn mang ra đây mươi chiếc phao. Tất cả đưa lên gốc sung còm đầu Giang Nội. Khẩn trương lên, nếu chậm sẽ không cứu được gia đình bà Côi. Bây giờ thôn huy động các thanh niên khỏe mạnh lên ngay chỗ cây sung nhé. Nói rồi ông bụm tay loa ra sông:
- Bà Côi và các cháu bám thật chắc vào mái nhà, chúng tôi ra cứu ngay đây!
Chờ một lúc thì có đủ mọi thứ. Ông Tâm chọn một thanh niên khỏe mạnh, thạo bơi, xuống thuyền cùng ông. Ông buộc trước một đầu dây vào thang thuyền, đầu dây kia bảo cánh thanh niên quấn mấy vòng vào cành sung thấp. Ông dặn khi nào bắt đầu chèo thì thả dần dây ra cho thuyền vừa trôi xuôi vừa bị ghìm chèo để chếch sang mái nhà bà Côi. Tình thế diễn ra đúng như ông đã tính. Vừa tới nơi, người thanh niên cắm sào, cột chắc dây và nhảy sang mái nhà, mặc áo phao, dắt từng người. Thuyền tròng trành, chao đảo, rất may mấy bà cháu đã quen ngập lũ nên bước chân có phần tự tin. Khi tất cả đã xuống thuyền, ông Tâm giơ tay ra hiệu cho trên bờ kéo mạnh. Ông cố chèo để thuyền không bị mắc vào những ngọn tre đang vật vã trong nước xiết xoáy. Gồng sức chèo lái, thuyền cũng vào được sát bờ. Mọi người mừng lắm. Đúng khi ấy một thân cây từ thượng nguồn trôi đến. Chớp mắt, ông Tâm nhào lại đẩy thuyền ra. Ông bị một cành cây quất ngang ngực đau điếng nhưng vẫn cố cho con thuyền vào bờ. Mọi người hò nhau giữ thuyền. Bà Côi xúc động ứa nước mắt... Cùng lúc ấy ông Tâm ôm ngực, lả người ngất đi, quỵ xuống bãi đất bên gốc sung. Mọi người hoảng hốt, la lối rồi xốc ông lên xe đưa xuống bệnh viện Nông Bình. Lũ đã rút, mây trắng dần, bầu trời lộ ra những khoảng xanh. Mấy ngày nằm viện, hôm nay ông Tâm mới cảm thấy đỡ đau. Ông bị gãy năm chiếc xương sườn bên phải, rất may đầu xương chưa chọc vào lục phủ ngũ tạng. Chủ tịch xã đến bệnh viện thăm, ông vẫn phải nằm để ổn định các đầu xương. Nhìn mọi người, ông khẽ gật rồi nâng nhẹ bàn tay mời ngồi xuống giường bên:
- Không sao, tôi ổn mà, chắc một tuần nữa sẽ về thôi!
Chủ tịch xã nắm tay ông:
- Bác cứ yên tâm chữa trị, hậu quả lũ lụt xã lo yên ổn cả rồi. Vô cùng cám ơn bác đã vì bà con mà bị thương, đau đớn.
- Không sao đâu chủ tịch. Tình hình này xã phải lo ngay việc xóa nhà tạm, nhà dột nát cho bà con. Tôi hiến đất cả nhà đồng ý, nhưng nếu yêu cầu phải có giấy đăng ký kết hôn thì không có. Trái tim với trái tim là thiêng liêng, tối thượng trên cõi đời này...
Chủ tịch xã cảm động:
- Vâng thưa bác! Xã nhận đất hiến của gia đình ta, không phải giấy đăng ký kết hôn đâu ạ!
Nét mặt ông Tâm tươi hoạt hẳn lên, đôi mắt ươn ướt hướng qua khung cửa căn phòng. Đã cuối chiều, khoảng trời phía sông Sung sau lũ đang cao xanh trở lại. Mảnh trăng quê chả biết từ đâu, bỗng dưng đu đưa bên cành lá bồ đề nơi cửa bệnh viện. Miền sông trăng, ông Tâm nhìn về phía ấy rồi nhìn mọi người. Họ cũng đang nhìn về nơi ấy...
V.Q.T