Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Bình luận văn nghệ   /   Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thiện với "Năng lượng chữ và Bút lực"
Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thiện với "Năng lượng chữ và Bút lực"

Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thiện với "Năng lượng chữ và Bút lực"

NGUYỄN TỰ LẬP

Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thiện là một trong những nhà lý luận - phê bình văn học nghệ thuật (VHNT) uy tín và có tầm của Việt Nam, với nhiều đóng góp quan trọng trong nghiên cứu, truyền dạy và phát triển nền văn học nước nhà. Những tác phẩm lý luận - phê bình VHNT của ông thường tập trung phân tích các hiện tượng văn học từ góc độ mỹ học, ngôn ngữ và tư tưởng, kết hợp giữa truyền thống với hiện đại. Các bài phê bình của ông luôn cân bằng giữa lý trí và cảm xúc, chú trọng đến “năng lượng ngôn từ” cùng giá trị nhân văn…
Với PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện, trong con người ông luôn nuôi dưỡng, duy trì một ngọn lửa đam mê VHNT đến cháy bỏng hiếm có. Chẳng vậy mà bất chấp tuổi đã cao, kèm theo bệnh tật, sức khỏe giảm sút, hoàn cảnh gia đình neo đơn… nhưng chỉ trong 5 năm (từ 2020 đến đầu năm 2025) ông đã cho ra mắt, giới thiệu cùng độc giả 4 tập Tiểu luận - Phê bình VHNT khá đồ sộ, với hình thức, nội dung, chất lượng chuẩn chỉnh, mẫu mực(1) mà có lẽ nhiều người, kể cả những đồng nghiệp cùng thời, dù mơ cũng khó có được! Đặc biệt, với bút lực thực sự dồi dào, tràn trề năng lượng, nên qua gần 40 năm gắn bó với chuyên ngành, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đã cho ra đời 11 cuốn chuyên luận, tiểu luận - phê bình của riêng mình; 40 tác phẩm ông làm chủ biên và 73 đầu sách in chung… với số lượng nhiều nghìn bản cùng hàng vạn trang(2). Ông đã được Hội đồng Lý luận - Phê bình VHNT Trung ương trao giải thưởng cho những tác phẩm xuất sắc vào các năm: 2013, 2016, 2021 cùng nhiều giải thưởng trong các lĩnh vực khác.
Trong cuốn sách “Năng lượng chữ và Bút lực”, với dung lượng 392 trang, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành tháng 7 năm 2025, được bố cục làm hai phần gồm: Phần thứ nhất: Tiểu luận - Phê bình; Phần thứ hai: Phụ lục. Nội dung toàn bộ cuốn sách, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đã tập trung công bố 20 bài viết phê bình VHNT từ các vấn đề khác nhau; 15 bài viết của đồng nghiệp, bạn bè, môn sinh… cảm nhận về tác phẩm, tác giả cùng với Tiểu sử tự thuật; Thư mục cùng một tác giả và Thư mục nghiên cứu về tác giả. Trong đó, Phần thứ nhất và Mục I, Phần thứ hai là trọng tâm, trọng điểm.
Trong Phần thứ nhất: Tiểu luận - Phê bình, có 2 bài PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện tập trung làm rõ Đường lối văn nghệ của Đảng qua chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với đội ngũ văn nghệ sĩ cùng các vấn đề về văn hóa, văn nghệ, giáo dục. Có 8 bài viết phê bình, trong đó PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện tập trung giới thiệu, phác họa chân dung các tác giả cũng như những nội dung sâu đậm, cốt lõi qua những tác phẩm văn học (tập thơ, tiểu thuyết, bài phê bình VHNT…) mà họ đã thể hiện qua quá trình đầu tư trí tuệ, lao động nghiêm túc, sáng tạo để có được. Đồng thời, trong phần này, tác giả còn có 2 bài viết giới thiệu về nhà báo - nhiếp ảnh gia tài năng, kỳ cựu, gần như cả cuộc đời “lao tâm khổ tứ”, gắn bó với nghề là Nguyễn Bá Khoản và Hoàng Kim Đáng. Ngoài ra, cũng trong phần một, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện còn dành 5 bài viết khác giới thiệu về chân dung nhà hoạt động chính trị tiêu biểu Phan Diễn qua tác phẩm “Người biết lo xa” của nhà báo Diệu Ân là chủ biên; Nhà văn - nhà báo, Giáo sư Hà Minh Đức; Về sự liên kết nhà văn, nhà xuất bản, nhà in; Về Lịch sử báo chí cho Hội thảo khoa học “50 năm văn học nghệ thuật đồng hành cùng dân tộc”, đồng thời cũng không quên dành một số trang viết về người chị gái vô cùng kính quý của mình và gia đình trong hoạt động thơ ca, cùng 3 bài có tính chất hồi ức về hoạt động ở Viện Văn học, ở Hội đồng Lý luận - Phê bình VHNT Trung ương và việc biên soạn xuất bản bộ tùng thư đồ sộ: Lý luận - Phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Qua các bài viết trong phần thứ nhất, mỗi chúng ta càng hiểu rõ thêm về tác giả. Mặc dù được đào tạo và tốt nghiệp chuyên ngành Văn học với bằng Tiến sĩ ở Cộng hòa dân chủ Đức, nhưng trong các bài viết về Lý luận - Phê bình VHNT của mình, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện luôn biết vận dụng một cách chọn lọc, cẩn trọng giữa lý thuyết văn học hiện đại phương Tây với cái nhìn bản địa, gắn với văn hóa Việt. Ông luôn coi trọng chữ tín, trọng đạo đức nghề nghiệp. Đó là phê bình thẳng thắn nhưng tôn trọng sự khác biệt, không rơi vào cực đoan. Luôn chú trọng tính nhân văn. Luôn đặt con người và giá trị thẩm mỹ lên hàng đầu khi đánh giá tác phẩm, tác giả. Điều đó thể hiện rất rõ khi viết về ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh nghĩ về đội ngũ văn nghệ sĩ tài năng trong thời cuộc mới, Nguyễn Ngọc Thiện đã phân tích rất kỹ những bài học từ 3 câu chuyện về Bác có liên quan đến Viện Văn học - nơi mà ông công tác gắn bó suốt nhiều năm, từ đó rút ra một vấn đề có tính chỉ đạo xuyên suốt mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong mỏi các văn nghệ sĩ ở tất cả các lĩnh vực, nghề nghiệp phải luôn nhớ và thực hiện bằng được là: “… Phải có một bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp cần thiết, biết tôn trọng công chúng và người đọc, để tâm huyết và dụng công làm ra những sản phẩm thuộc văn hóa tinh thần tinh xảo ở trình độ tay nghề bậc cao, hoàn mỹ…” (tr.20) và Người mong mỏi, chỉ rõ tác phẩm nghệ thuật muốn tiềm tàng những giá trị sâu sắc phải: “gần với cuộc sống, đi sát cuộc sống, trở về với cuộc sống sinh hoạt thực tại của con người” (tr.21).
Là người bạn học cùng lớp với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thuộc khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây và sau này cũng có nhiều năm gần gũi, tiếp xúc với Tổng Bí thư, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện luôn coi trọng và nhận rõ những ý kiến chỉ đạo hết sức sâu sắc, cụ thể và khoa học về văn hóa, văn nghệ, giáo dục của Tổng Bí thư qua tác phẩm: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”(3) cũng như các bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Viện Văn học (12-1999); 70 năm Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam (7-2018); Hội nghị Văn hóa toàn quốc (11-2021)… Đặc biệt những nhận thức tư tưởng, quan điểm lớn sáng tạo trong chỉ đạo hoạt động văn hóa, văn nghệ hiện nay và hướng tới trên cơ sở thực tiễn và phát triển đường lối, quan điểm của Đảng - Bác Hồ mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết: “Văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, một vũ khí sắc bén của cách mạng vô sản, phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội…” hay “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn” (tr.28) hoặc “Văn nghệ sĩ phải đồng hành cùng dân tộc, trái tim đập cùng một nhịp với trái tim của toàn dân tộc…” (tr.29) đã để lại trong tâm thức tác giả sự kính trọng, mến mộ và cảm phục sâu sắc. Nhận thức rõ vị trí, vai trò chỉ đạo hết sức quan trọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với văn hóa, văn nghệ, và sự nghiệp giáo dục nước nhà, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện khẳng định: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã là người học trò (thuộc thế hệ sau) xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí là người phát động và là thủ lĩnh dấy lên cao trào chấn hưng nền văn hóa, văn nghệ Việt Nam, đáp ứng nhu cầu mới của thời đại, mong mỏi của nhân dân và bạn bè quốc tế”. Hơn nữa: “… Đồng chí Nguyễn Phú Trọng không chỉ là nhà chính trị kiệt xuất mà còn xứng đáng là nhà văn hóa uyên bác, một Hiền Nhân thuộc vào hàng “nguyên khí quốc gia...” (tr.30). Những nhìn nhận, đánh giá nêu trên của tác giả thực sự công tâm, khoa học và chính xác, mang tính thuyết phục cao với độc giả.
Bên cạnh những vấn đề chung có liên quan đến đường lối văn hóa, văn nghệ, giáo dục của Đảng, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện cũng luôn chú trọng, quan tâm đến những hoạt động thực tiễn của các văn nghệ sĩ đồng nghiệp và người thân. Họ là những nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận - phê bình VHNT hay các nhiếp ảnh gia, nhà báo… đã có bề dày hoạt động trong chuyên ngành, khá nổi tiếng trên văn đàn như: Nhà văn, nhà báo - Giáo sư Hà Minh Đức; Trung tướng - nhà văn Hữu Ước; nhà văn Cao Văn Liên; nữ sĩ Chu Nga, Thu Lâm hay nhiếp ảnh gia Nguyễn Bá Khoản, Hoàng Kim Đáng, nhà báo Diệu Ân… Song cũng có tác giả mới được biết đến sau này như: Nhà thơ Lê Tuấn Lộc, nhà phê bình VHNT Nguyễn Thị Thiện. Cá biệt cũng có nhà thơ lần đầu ông gặp, đồng thời duy nhất có 1 tập thơ, và cũng là tập cuối cùng trong đời như Phạm Thường Dân… Nhưng tất cả họ đều được PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện nghiên cứu, kiểm chứng và nhận xét, đánh giá một cách xác đáng qua mỗi tác giả, tác phẩm, không chung chung, hời hợt nên hết sức cuốn hút người đọc. Ví như, với nữ sĩ Chu Nga - nhà nghiên cứu - phê bình, dịch văn học xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ trước. Mặc dù được đào tạo bài bản, chỉn chu, lại có vốn ngoại ngữ tiếng Nga thành thục “có thương hiệu”…; là một người làm khoa học văn chương có bản lĩnh, am hiểu thấu đáo lao động nghệ thuật “đãi cát tìm vàng”, có rất nhiều bài viết đặc sắc, công lao đóng góp không nhỏ cho Viện Văn học nói riêng, nền VHNT nước nhà nói chung... nhưng Chu Nga chỉ cho ra đời một tuyển tập khiêm tốn “Thả hồn theo trang sách”, tập hợp của các bài viết có chọn lọc suốt hơn 20 năm (từ 1962 đến 1985). Với quan điểm lấy tinh là chính “chất hơn lượng”, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện luôn trân quý, đánh giá cao vai trò và ảnh hưởng của Chu Nga trong giới văn học, “… là cây bút nữ đặc sắc, đáng quý, có tài, có đức, thạo nghề” (tr.83). Chẳng vậy, khi kết thúc bài viết của mình, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đã dành sự tôn trọng đặc biệt đối với nữ sĩ: “Có thể nói, trong thế hệ thứ hai các nhà nghiên cứu - phê bình văn học nữ ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, Chu Nga là một trong những cây bút xuất sắc, hiếm có với những đóng góp không bị mai một theo thời gian, cần được tiếp tục ghi nhận và khẳng định” (tr.85).
Ngoài bài viết giới thiệu về tiểu thuyết “Suối Cọp” của nhà văn Hữu Ước, và bài “65 năm hoạt động báo chí của nhà văn, nhà báo GS Hà Minh Đức” - những người mà cả tên tuổi lẫn các tác phẩm của họ đã nổi danh trong giới văn đàn Việt Nam được nhiều người biết đến qua cách viết, tính sáng tạo bứt phá khi thể hiện nội dung, ngôn từ cũng như sự cống hiến… mỗi độc giả còn hết sức chú trọng đến các bài viết của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện về chân dung nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh - chiến sĩ Nguyễn Bá Khoản và Hoàng Kim Đáng. Mặc dù họ không phải những văn nghệ sĩ thuộc chuyên ngành Văn học, nhưng PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đã dành sự chú ý và quý trọng không nhỏ đối với hai ông. Bởi lẽ, với Nguyễn Bá Khoản, trong gần 6 thập kỷ bấm máy (từ năm 1936 đến 1993), đã có hàng ngàn tác phẩm tiêu biểu được lựa chọn, lưu giữ phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nước, ông vẫn luôn khiêm tốn tự lý giải là tại sao mình lại gắn bó với nghề đến như vậy: “Chụp ảnh là để sống hết mình, được thể nghiệm tất cả những gì thuộc năng lực, thiên tư đã tiềm ẩn trong bản thân mình…” (tr.104). Hay là với Hoàng Kim Đáng, vừa chụp hình, ông vừa lựa chọn và viết thuyết trình các bức ảnh đẹp có giá trị về nghệ thuật và nhân chứng. Đó là “những tác phẩm “chỉnh chu” của một thương hiệu nhà nghề, lão thực (tr.112) mà nhà văn Ma Văn Kháng đã nhận xét trong cuốn sách ảnh dày ngót nghét 500 trang của Hoàng Kim Đáng chọn từ hàng trăm chân dung mà ông đã chụp và viết sau chặng đường 40 năm.
Qua mỗi tác phẩm của mình trước đây cũng như sau này, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện đều có quan điểm, cách nhìn xuyên suốt là: sở dĩ mình có được như ngày hôm nay đều xuất phát từ truyền thống, nguồn cội quê hương, gia đình, dòng tộc… Ông luôn tự hào về truyền thống quê Nành đất Kinh Bắc nghìn năm văn vật, về gia đình gia giáo “5 đời khuyến học” xuất phát từ tư tưởng “Thế Uẩn Thiện”; sự thành đạt của vợ, con cùng 6 anh chị em… trong đó có người chị gái Nguyễn Thị Kim Thành - một nhà giáo, nhà khoa học cầm bút viết văn - thơ. Mặc dù trải qua nhiều khó khăn, sóng gió trong cuộc đời, Nguyễn Thị Kim Thành không ngừng nỗ lực để vượt qua và trở thành giảng viên trường đại học có học vị Tiến sĩ. Khi nghỉ hưu, tuổi cao “ngoại bát thập” vẫn không ngừng hoạt động sáng tác, tham gia tích cực trong Hội Khuyến học, Hội Cựu giáo chức, Câu lạc bộ Thơ - Văn quận Cầu giấy (Hà Nội); nhiều tác phẩm được lựa chọn in trong sách chung và riêng... được dư luận đánh giá cao. Đúng như PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện - người em trai luôn ngưỡng mộ chị đã trải lòng: “Chị là người con thân thiết của quê hương, gia đình, người con có hiếu, tâm nguyện phát huy truyền thống tốt đẹp của đất nước, dân tộc, nhân quần…” (tr.189).
Trong Phần thứ nhất của cuốn Tiểu luận - Phê bình, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện còn có những bài viết mang tính hồi ức sau gần 4 thập kỷ gắn bó với Viện Văn học; về 3 nhiệm kỳ tham gia Hội đồng Lý luận - Phê bình VHNT Trung ương và việc biên soạn bộ tùng thư Lý luận - Phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX. Ngoài ra còn có bài điểm lại “Về báo chí văn nghệ Trung ương từ trước tới nay” và kiến nghị, đề xuất việc “Nâng cao hiệu quả liên kết giữa nhà văn, nhà xuất bản, nhà in” trong điều kiện và tình hình hiện nay. Qua những hoài niệm và kiến giải trong từng bài viết nêu trên, mỗi chúng ta thêm cảm phục và hiểu rõ hơn về PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện thực sự là một nhà văn, nhà báo, nhà lý luận - phê bình VHNT có tâm, có tầm, luôn hết lòng vì sự nghiệp và công việc chung, không màng danh lợi, mưu cầu cá nhân… đáng được mọi người mến mộ, kính trọng. Xin được trích một đoạn tự sự sau đây để mỗi độc giả hiểu thêm về Tâm - Trí - Đức của ông: “Hiện tuổi tuy đã cao, không còn là thành viên kiêm chức của Hội đồng(4) nữa, tôi hứa sẽ tiếp tục gắn bó với các hoạt động của Hội đồng, đóng góp phần cao nhất hiện hữu của mình vào những thành công mới, trên chặng đường mới…” (tr.154). Đúng là tư duy của người suốt đời chỉ biết nỗ lực phấn đấu. Cống hiến và cống hiến… thật đáng trân trọng!
Trong Phần thứ hai (Phụ lục) của tác phẩm còn tập hợp 15 bài viết trong hai năm gần đây nhất của các nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà báo và môn sinh của ông như: Vũ Nho, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Tự Lập, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Ngọc Bảo, Lê Thị Bích Hồng, Bùi Như Hải, Lê Tuấn Lộc, Hoàng Kim Đáng, Trần Thị Bích Hải, Phạm Đình Ân, Huyền Thương, Vi Thị Phương, Mã Anh và Thu Lâm. Tất cả các bài viết đều minh chứng PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện là một trí thức tâm huyết, một nhà văn, nhà lý luận - phê bình VHNT, nhà báo uyên thâm, lão thực, cầu thị; với nhiều đóng góp tích cực cho việc định hình diện mạo phê bình văn học Việt Nam đương đại cũng như truyền lửa cho thế hệ mai sau. Đúng như nhà văn Ngô Khiêm đã nhìn nhận: “… Nguyễn Ngọc Thiện là sự kết hợp hài hòa của tâm hồn nghệ sĩ, tư duy khoa học và trái tim nhân hậu… ông cháy hết mình với những đam mê bằng tinh thần, thái độ làm việc nghiêm túc, chỉn chu và giàu lòng nhân ái…” (tr.346).
Ngoài ra, trong Phần thứ hai (Phụ lục) của cuốn sách còn có các mục: Tiểu sử tự thuật; Thư mục cùng một tác giả; Thư mục nghiên cứu về tác giả… để độc giả có thêm tư liệu nghiên cứu, hiểu thêm về quê hương, gia đình và bản thân ông.
Tựu trung, cuốn sách “Năng lượng chữ và Bút lực” của PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện hứa hẹn sẽ là một tác phẩm đáng đọc cho những ai quan tâm đến văn học, nghệ thuật; ngôn từ và quá trình sáng tạo.                        

Bắc Ninh, tháng 7-2025
N.T.L

(1): Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng và Lý luận, thực tiễn Nghệ thuật (Chuyên khảo, NXB Hội Nhà văn - 2020, 360 trang); Văn và Đời (Chủ biên, NXB Hội Nhà văn - 2021, 1072 trang); Khúc hợp đàn (NXB Hội Nhà văn - 2023, 392 trang); Năng lượng chữ và Bút lực (NXB Hội Nhà văn - 2025, 392 trang).
(2): Bạn bè, đồng nghiệp, môn sinh đều thừa nhận PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện là “trước tác đẳng thân”(sách vở mà ông viết ra xếp cao ngang với thân mình).
(3): Nguyễn Phú Trọng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, tháng 6-2024.
(4): Hội đồng Lý luận - Phê bình Văn học - Nghệ thuật Trung ương.

 


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 186
 Hôm nay: 2521
 Tổng số truy cập: 13989117
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa