Tinh hoa, hào khí xứ Thanh mạch nguồn, chất liệu của trường ca
Tinh hoa, hào khí xứ Thanh mạch nguồn, chất liệu của trường ca
BÙI THỊ HƯƠNG THẢO
Trong bài viết “Mấy suy nghĩ về thể trường ca”, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nhận định: “Thơ không thể chỉ tự bằng lòng đóng khung trong những bức tranh gọn hẹp, những cảm xúc ngắn gọn mà còn có khát vọng vươn dài nới rộng để khám phá và biểu hiện tầm sử thi của cuộc sống”.
Có lẽ, chính bởi những thôi thúc, những kỳ vọng, khao khát được vượt thoát khỏi giới hạn, khuôn khổ chật hẹp của cảm xúc mà thể loại trường ca vẫn luôn giữ vai trò, vị trí, một sức sống bền bỉ trong đời sống văn học Việt. Và trong dòng chảy, xu hướng vận động chung ấy, văn học xứ Thanh cũng không phải ngoại lệ.
Điểm lại lịch sử hình thành và phát triển của trường ca trong lịch sử văn học nước nhà, chúng ta không thể phủ nhận được vai trò, vị trí cùng sức hấp dẫn đã làm nên sức sống bền bỉ của thể loại văn học này. Điều đó thể hiện qua “gia tài” các trường ca nổi tiếng, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả Việt như: “Tiếng địch sông Ô” của Huy Thông; “Ngọn quốc kỳ” và “Hội nghị non sông” của Xuân Diệu; “Những người trên cửa biển” của Văn Cao; “Bài ca chim Chơ-rao” của Thu Bồn; “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm; “Khúc hát người anh hùng” của Trần Đăng Khoa; “Những người đi tới biển” của Thanh Thảo; “Đường tới thành phố”, “Trường ca biển” của Hữu Thỉnh; “Con đường của những vì sao”, “Trường ca biển mặn” của Nguyễn Trọng Tạo...
Hòa chung vào dòng chảy ấy, cùng với chiều sâu văn hóa - lịch sử cùng thực tiễn phát triển năng động của xứ Thanh là điều kiện lý tưởng, “màu mỡ” để khơi nguồn và dung dưỡng ý tưởng để các thế hệ văn nghệ sĩ thỏa sức “thâm canh” sáng tạo với thể loại trường ca.
1. Những tinh hoa, giá trị
Xứ Thanh trải qua hàng nghìn năm lịch sử được nuôi dưỡng “bằng nguồn sữa mẹ sông Mã vĩ đại, trong tiếng hát ru êm ái, dịu ngọt của thiên nhiên đất trời, giữa vành nôi núi Đọ, núi Rùa thiêng kỳ vĩ và các núi đàn em: núi Nuông, núi Nổ, núi Quân Yên...”. Từ buổi bình minh loài người, xứ Thanh đã lưu dấu những trầm tích đầu tiên... “Đó là trang sử đá chứng minh người nguyên thủy tối cổ trên miền đất xứ Thanh từ người vượn - vượn người đứng thẳng lên bằng hai chân và bắt đầu làm ra công cụ kỹ thuật rìu đá đầu tiên từ những mảnh đá bazan để lao động sản xuất”. Và rồi, trên hành trình khẳng định mình ấy, bên dòng sông Mã vừa kỳ vĩ, vừa nên thơ, “người Việt cổ đã có thời làm chủ một cuộc sống huy hoàng với văn hóa Đông Sơn, với các vua Hùng. Di chỉ Đông Sơn bên bờ sông Mã đã chứng tỏ “từ buổi ban đầu của thời đại đồ đá cũ, châu Âu cổ đại đã phải quay mặt về phương Đông”.
Theo dòng thời gian, cùng biết bao nỗ lực cố gắng, ý chí sinh tồn, tài năng, sức sáng tạo, qua các nền văn hóa - văn minh, xứ Thanh - “một Việt Nam thu nhỏ”, đã ghi dấu ấn sâu đậm về “địa điểm nhiều kỷ niệm về quá khứ giàu truyền thống và vĩ đại”, là “nơi căn bản của nước Nam”... Đất “địa linh” ắt sinh “nhân kiệt”. Về số lượng và tầm vóc ảnh hưởng, xứ Thanh là một trong những địa phương thuộc top đầu cả nước về nhân vật chí. Người xứ Thanh ghi danh đông đảo trong tiến trình lịch sử dân tộc. Người tài thời nào cũng có, nhiều thế kỷ người xứ Thanh đứng chật cả sân rồng. Sách “Địa chí Thanh Hóa”, tập IV - Nhân vật chí nhận định: “Gần nửa thiên niên kỷ, hầu hết các vương triều ở Đại Việt đều có nguồn gốc từ Thanh Hóa. Từ thế kỷ XV và kéo dài liên tục sau đó đến thế kỷ XIX, người Thanh Hóa gần như chiếm trọn vũ đài vương quyền ở Đại Việt, với sự xuất hiện liên tiếp của các vương triều cùng chung một địa bàn phát tích”. Từ Ngô Quyền - vị vua đầu tiên sáng lập ra triều đại nhà Ngô (939-965), vốn là “rể quý” của Dương Đình Nghệ, người làng Giàng (nay là phường Thiệu Dương, TP Thanh Hóa), tiếp nối mở ra các triều đại phong kiến Việt Nam. Xuyên suốt dòng chảy lịch sử ấy, xứ Thanh ghi dấu ấn vàng son gắn liền với sự ra đời và phát triển của các triều đại như: Vua Lê Đại Hành - vị vua của triều Tiền Lê; Hồ Quý Ly với triều đại nhà Hồ (1400-1407); vua Lê Thái Tổ… Xứ Thanh còn là nơi gắn với cuộc đời của các chúa: Trịnh Kiểm với vai trò là người khai cơ lập nghiệp cho các chúa Trịnh - lực lượng nắm quyền trên thực tế ở Đàng Ngoài từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII; Nguyễn Hoàng với vai trò là người mở cõi cho các chúa Nguyễn ở Đàng Trong từ cuối thế kỷ XVI, về sau này là các vua nhà Nguyễn...
Cùng với vị trí địa - chính trị đặc biệt kết hợp với cốt cách con người nơi đây khiến xứ Thanh trở thành cái nôi nuôi dưỡng, vùng đất hứa, nơi dấy nghiệp, dấy nghĩa của nhiều thủ lĩnh kiệt xuất như: Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh - khởi nghĩa Bà Triệu; Lê Lợi - khởi nghĩa Lam Sơn; Tống Duy Tân - khởi nghĩa Hùng Lĩnh; Phạm Bành - khởi nghĩa Ba Đình... Hầu hết những biến cố chính trị của nước nhà đều ít nhiều gắn liền với vùng đất này và các vương triều phong kiến trong quá trình giữ nước hay trị nước cũng đều phải nhờ cậy hoặc lưu tâm đến con người và vùng đất xứ Thanh. Cả ba cuộc cải cách lớn nhất, nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam đều gắn liền với nhân vật người xứ Thanh như: Cải cách của Hồ Quý Ly và nhà Hồ cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV; cuộc cải cách của Lê Thánh Tông nửa sau thế kỷ XV và cuộc cải cách của Minh Mạng nửa đầu thế kỷ XIX.
Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, xứ Thanh luôn đóng vai trò, vị trí chiến lược quan trọng, hậu phương lớn. Người xứ Thanh có mặt ở khắp mọi nơi, xông pha trên những trận tuyến đầu đầy cam go, khốc liệt. Hình ảnh những đoàn xe đạp thồ mang theo lương thực, thực phẩm hiên ngang tiến về phía trước, vượt đèo cao, núi dựng, băng qua bom đạn quân thù phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ được xem như kỳ tích. Những cái tên anh hùng, liệt sĩ như: Trần Đức, Lê Công Khai, Trương Công Man, Lò Văn Bường, Tô Vĩnh Diện... Những địa danh: Đò Lèn, Hàm Rồng, Phà Ghép, Đảo Mê... gắn với chiến công của Trung đội lão dân quân Hoằng Trường (Hoằng Hóa) - đơn vị lão dân quân đầu tiên của miền Bắc bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng bộ binh, Trung đội nữ dân quân Hoa Lộc (Hậu Lộc) - đơn vị nữ đầu tiên của miền Bắc bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng bộ binh... và biết bao anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống cùng thắp lên ngọn lửa nhiệt huyết, tinh thần cách mạng sáng ngời, anh dũng, kiên trung của người xứ Thanh.
Xứ Thanh nổi danh là vùng đất học. Người xứ Thanh chuộng võ, yêu văn chương, nghệ thuật. Bởi vậy, đời nào cũng thế, xứ Thanh không chỉ có các vị vua anh minh, tướng giỏi, bề tôi trung thành, nghĩa tiết mà còn là quê hương của nhiều tác giả, học giả nổi tiếng với những tác phẩm có giá trị trong kho tàng văn hóa, văn học - nghệ thuật dân tộc. Có thể kể đến một số tác giả - tác phẩm nổi tiếng trên các lĩnh vực như: “Bạch vân chiếu xuân hải” - Khương Công Phụ, “Nam ông mộng lục” - Hồ Nguyên Trừng, “Phi Điểu nguyên âm” - Nhữ Bá Sỹ, “Đại Việt sử ký” - Lê Văn Hưu, các công trình nghiên cứu, dịch thuật, khảo cứu của học giả Đào Duy Anh... Thời kỳ hiện đại có các nhà văn, nhà thơ như: Trần Mai Ninh, Thôi Hữu, Hồ DZếnh, Hữu Loan, Đái Đức Tuấn, Nguyễn Duy,...
Những biến động lịch sử, những trầm tích lịch sử - văn hóa ấy đã kết tinh, lắng đọng, hòa quyện vào nhau dệt nên bức tranh di sản đa sắc, đa thanh, độc đáo, hấp dẫn. Theo số liệu thống kê sơ bộ, trên mảnh đất xứ Thanh hiện có 1.535 di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh đã được kiểm kê, bảo vệ, trong đó có 854 di tích đã được xếp hạng các cấp phân theo 4 loại di tích (di tích lịch sử - văn hóa, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh). Xứ Thanh vinh dự và tự hào có một Di sản văn hóa thế giới là Thành Nhà Hồ, 5 di tích quốc gia đặc biệt, 14 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, 139 di tích quốc gia, 709 di tích cấp tỉnh... Đây là tài sản vô giá, nguồn lực nội sinh quan trọng, động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quê hương, đất nước.
2. Trường ca xứ Thanh - nhìn gần và nhìn xa…
Niềm tự hào sâu sắc, cái danh giá ngàn năm cùng với những thăng trầm, biến động trên mảnh đất quê hương đã kết đọng thành mạch nguồn cảm hứng dâng trào, thôi thúc các cây viết xứ Thanh tìm đến với thể loại trường ca như một lẽ tự nhiên.
Hãy bắt đầu với cây đại thụ của làng thơ Thanh Hóa, Văn Đắc. Sau “Khúc hát bắt đầu từ nguồn nước”, trường ca “Thành Tây Đô” ra đời, đánh dấu sự quay trở lại và “lợi hại hơn xưa” của nhà thơ Văn Đắc ở thể loại văn học này. Ông tâm sự: “Ngay từ khi bước chân vào con đường sáng tác văn học, tôi vẫn luôn nung nấu một khát vọng cháy bỏng - khát vọng sẽ viết được một tác phẩm để đời, xứng tầm nhất về công đức vô lượng của các vị vua xuất thân là người xứ Thanh”. Bằng vốn kiến thức, am hiểu sâu rộng về văn hóa - lịch sử xứ Thanh qua các triều đại, tình cảm gắn bó sâu sắc của mình với vùng đất Tây Đô và ngồn ngộn những diễn biến, sự kiện lịch sử tiêu biểu diễn ra trên mảnh đất này, nhà thơ Văn Đắc dành tình cảm, sự quan tâm đặc biệt cho nhân vật Hồ Quý Ly.
Tại sao lại là Hồ Quý Ly, một nhân vật lịch sử mà cuộc đời và sự nghiệp của ông cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận. Vương triều Hồ do ông sáng lập có thời gian tồn tại ngắn? Sự lựa chọn, hướng đi ấy vừa cho thấy bản lĩnh, tinh thần dấn thân vừa cho thấy “chất” lãng tử, cái nhìn sâu sắc của tác giả với lịch sử, trong tâm thế “nhìn lại” lịch sử.
Triều Hồ tồn tại trong 7 năm (1400-1407), một thời gian quá ngắn ngủi để có thể làm nên những thành tựu rực rỡ. Tuy nhiên, cũng trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, vương triều này đã để lại những dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc dưới sự điều hành của Hồ Quý Ly. Hàng loạt cải cách của Hồ Quý Ly qua các chính sách “hạn điền”, “hạn nô”, đổi mới trong thi cử giáo dục, phát hành tiền giấy... được thực hiện đã cho thấy nỗ lực, khao khát canh tân đất nước. Mặc dù những cải cách ấy chưa được thực hiện một cách triệt để do những hạn chế của thời đại và còn dang dở bởi điều kiện khách quan chi phối nhưng nó đã phản ánh thực tế lịch sử: Hồ Quý Ly và vương triều của ông đã thực quan tâm và mong muốn đất nước phát triển phồn vinh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... (Địa chí Thanh Hóa, tập I - Địa lý và Lịch sử). Thực tế, ván cờ lịch sử đã trả lời rất rõ, để lại những bài học đáng quý, sâu sắc cho hậu thế. Đó là bài học về “thiên thời - địa lợi - nhân hòa”, đạo nghĩa vua - tôi, giá trị và sức mạnh lòng dân... Đặc biệt, trong bất kỳ giai đoạn nào cũng vậy, mong muốn canh tân đất nước, cái giá của cải cách, đổi mới bao giờ cũng không tránh khỏi những hụt hẫng, mất mát, hy sinh. Anh hùng và bi hùng đâu phải chỉ cách nhau một chữ thành hay bại.
Trường ca “Thành Tây Đô” được xây dựng với 6 chương, lần lượt là: Đêm Thăng Long, Về Tây Đô, Tiếng đá, Tây Đô ngày hội, Giấc mộng Tây Đô, Độc Thoại và Khúc vĩ thanh. Tác giả xây dựng hình tượng nhân vật Hồ Quý Ly - người anh hùng nhuốm màu sắc bi tráng - cái tráng lệ của một con người tài năng, trí tuệ, nhạy bén với thời cuộc, đi trước thời đại; cái bi của kiếp nhân sinh bé nhỏ, tầm vóc, tư tưởng, tài năng lớn nhưng “lượng đời” cứ chật, thời thế loạn lạc. Đấy là sự tri âm sâu sắc của tác giả với người xưa. Giữa lúc thành Thăng Long đang “Run lên bần bật/ Tô Lịch chết và Hoàng Giang lẩy bẩy/ Lục thủy hồ dương liễu tóc khô cong” báo hiệu vận nước suy vi, Hồ Quý Ly - người anh hùng cô độc đứng ra gánh vác sứ mệnh lịch sử đặt lên vai, đè lên ngực trần ấm nóng - nơi trái tim đập vang lên tinh thần, trách nhiệm cao cả: “Ngửa mặt Quý Ly, mây quấn một vòng Con ngựa chiến quỳ dưới chân thở dốc/ Đế đô nghìn xưa đè xuống vai Người/ Không biết đứng lên hay cúi xuống chịu ngồi?/ Người lấy cả tảng ngực trần chống đỡ/ Trái tim đập cuống lên như bão gió”.
Trong cảm hứng ngợi ca, Văn Đắc không chỉ có những hình ảnh, liên tưởng, tưởng tượng về sự mạnh mẽ, quyết liệt, khí thế. Người anh hùng trong trường ca “Thành Tây Đô” cũng có lúc yếu lòng mà rơi lệ. Ngòi bút của Văn Đắc không cố gượng ép nhân vật của mình phải siêu nhiên, phải gồng mình lên mà được sống trọn với cảm xúc của mình: “Xốc bao kiếm, lao ra ngoài trời/ Đập cửa đền Đồng Cổ, người khóc!/ Lại thêm một lần, người rơi nước mắt”. Không luận bàn lịch sử, tuy nhiên, qua việc khéo léo phác họa nên bối cảnh lịch sử, tài tình trong cách khai thác tâm lý nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu thơ hào hùng, nhịp thơ bừng bừng khí thế góp phần mang lại cho người đọc nhận thức sâu sắc, đúng đắn, đa chiều về chân dung, tính cách và số phận Hồ Quý Ly trong số phận của quốc gia, dân tộc, đồng thời khẳng định: Việc Hồ Quý Ly “đảo chính”, quyết rời bỏ Thăng Long - Đông Đô về Tây Đô - Thanh Hóa là tất yếu lịch sử, quyết sách đúng đắn, thể hiện khí chất ngang tàng, bản lĩnh, quyết đoán của bậc trượng phu.
“Đất nước vào vận suy vi, phải đổi đời, mở mang cường thịnh” - xuất phát từ một ý niệm, một khao khát mãnh liệt như thế, tại vùng đất Tây Đô - mảnh đất quê hương mà cả cuộc đời Hồ Quý Ly nguyện ghi lòng tạc dạ, ông cùng biết bao con người nơi đây gây dựng nên vương triều, mở kinh đô với những: “Cung điện, đền đài, dinh thự, phố phường tráng lệ/ Họ dựng đá bao quanh sừng sững/ Bốn cửa thành mở cờ, gióng trống”. Từ một “nơi chật hẹp hẻo lánh, cuối nước đầu non, nên với loạn mà không nên với trị”, vương triều nhà Hồ làm nên bao điều kỳ vĩ, lưu danh sử sách, trường tồn với thời gian: “Quý Ly ấn mười đầu ngón tay/ Vào trời đất Đại Việt/ Đầu thế kỷ XV/ Bài thơ bằng đá/ Khúc thần thoại bằng đá/ Bức phù điêu bằng đá”. Hồ Quý Ly hiện lên như một nhà tiên phong cải cách về mọi mặt với mong mỏi về sự cường thịnh của quốc gia, dân tộc.
Lịch sử một lần nữa được nhìn lại. Hồ Quý Ly một lần nữa được nhìn nhận lại. Cả cuộc đời ông là khúc bi tráng. Văn Đắc rất tinh tế khi đặt Quý Ly vào nhiều số phận khác nhau, để nói với độc giả một điều rằng: “Quý Ly tự xét mình/ Như đá thu lại thành lũy/ Nghe được nỗi khổ/ Lắng được lời than/ Biết mình đơn độc/ Vẫn làm mũi tên/ Làm tướng, làm vua/ Để thành nghiệp bá/ Giá mà không tướng không vua nữa/ Chắc Quý Ly hiền như đá thôi”. Quả thực, nếu không đứng ra gánh vác lấy cái sứ mệnh lịch sử cao cả mà trái ngang kia, số phận của Hồ Quý Ly chẳng nghiệt ngã đến thế. Nếu không làm tướng, làm vua, ông chẳng bao giờ phải quặn lòng, nghiến răng trước cái chết của những kẻ phản nghịch: “Quý tộc là gì? Ta đích thân là quý tộc/ Nhưng ta không lo đắp mộ sống cho mình bằng nhà vàng, áo vóc/ Chém các ngươi là ta chém vào nửa người ta...”. Trước con mắt của người đời, bậc đế vương được ngồi lộng tía ngai vàng, hậu cung trăm nghìn cung tần, mỹ nữ, sơn hào hải vị ngập bàn, hô một tiếng là “tru di tam tộc”... Nhưng đâu ai biết rằng, những thứ hào nhoáng kia không khỏa lấp được một bóng dáng đơn độc, một tâm hồn quá nhiều đè nén. Thù trong giặc ngoài, vương triều Hồ làm sao chống đỡ, Hồ Quý Ly xoay xở sao cho kịp bề, “chưa kịp bình yên thì đèn gặp gió”, “Người độc thoại/ Đường dài/ Khổ lắm/ Mấy ai nghe”...
Là thế đấy, cuộc đời của người anh hùng, sinh ra giữa thời loạn lạc nên cái nhận về chỉ là những nỗi bi ai. Tuy nhiên, những công lao, đóng góp của Hồ Quý Ly vẫn còn được muôn đời sau nhắc mãi. Thời gian trôi qua với biết bao vật đổi sao dời, được và mất đã không còn quan trọng. Thành Nhà Hồ vẫn hiên ngang đứng đó, ăn sâu vào đất, tạc vào lịch sử, tạc vào mây trời Tây Đô, vào lòng các thế hệ người dân đất Việt, ghi tên mình vào Di sản văn hóa thế giới... Và để lại bài học cho muôn đời sau, rằng phải: “Giữ đất cho dân/ Giành lấy dân cho nước/ Thành đá là sức của dân/ Nhân dân không nhận tên cho mình/ Nhân dân gọi: Thành Tây Giai/ Thành An Tôn/ Thành Tây Đô/ Thành Nhà Hồ/ Tên thành nhập vào tên đất, tên người”. Bởi lẽ đó: “Thành đá còn/ Nhân dân còn/ Quý Ly còn trong trời bể/ Bách Việt - nước Nam ta”.
Đâu chỉ có Văn Đắc với trường ca “Thành Tây Đô”, thật không phải nói quá khi so sánh rằng: Xứ Thanh là mảnh đất màu mỡ cho thể loại trường ca. Dường như, không một nhà thơ tên tuổi nào của xứ Thanh lại không một lần thử sức với trường ca. Nhiều tác giả, tác phẩm đã tạo được dấu ấn sâu sắc như: “Trường ca Hàm Rồng” - Mã Giang Lân, “Trường ca Hàm Rồng” - Từ Nguyên Tĩnh, “Trường ca sông Mã” - Huy Trụ, “Nước mắt con đường” - Trịnh Ngọc Dự, “Trường ca Thành Tây Đô” - Văn Đắc, “Trường ca Đò Lèn” - Lâm Bằng; các trường ca “Bầu trời màu hoa gạo”, “Ba mươi tháng tư”, “Hát nơi cửa sóng”, “Lê Lợi mài gươm”, “Mạch đất hồn trống đồng” của Nguyễn Minh Khiêm... Ngay từ tên tựa đề tác phẩm, người đọc dễ dàng nhận thấy: Cái hùng vĩ, cái bao la, rộng dài, tầng sâu văn hóa - lịch sử lắng đọng của những mảnh đất như Hàm Rồng - tọa độ lửa một thời, những con đường huyết mạch trong kháng chiến, những con sông Mã, Đò Lèn... là nguồn cảm hứng lớn lao, mạnh mẽ như thế nào đối với các cây bút xứ Thanh. Đã là người con xứ Thanh, ai mà không tự hào về chiến thắng Hàm Rồng, Đò Lèn vang dội, về sức vóc, vẻ đẹp, giá trị của sông Mã, sông Chu. Vẻ đẹp về đất và người xứ Thanh được khắc họa chân thực, đậm nét, thăng hoa trong sự đan xen hài hòa giữa cảm hứng sử thi, hùng tráng với niềm tự hào mãnh liệt và nét trữ tình, sâu sắc thể hiện trong sự chiêm nghiệm, trăn trở và khát vọng vươn tới tương lai của quê hương xứ sở, con người nơi đây. Đó cũng chính là nét nổi bật, độc đáo, hấp dẫn làm nên sức sống bền bỉ của các tác phẩm trường ca trong đời sống văn học xứ Thanh nói riêng, cả nước nói chung.
Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta vẫn cần thẳng thắn thừa nhận rằng: Diện mạo, đời sống văn học nghệ thuật, trong đó có trường ca, chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, lợi thế, cái “vạm vỡ”, bề dày, chiều sâu của truyền thống, lịch sử - văn hóa và cả nhịp điệu phát triển của xứ Thanh hôm nay.
Các sáng tác trường ca trong giai đoạn hiện nay vẫn trên tinh thần cốt lõi, bám, nắm vào những giá trị bất biến thuộc về cảm thức công dân như tình yêu quê hương, đất nước, tự hào với quá khứ, với bề dày truyền thống, giá trị lịch sử - văn hóa đặc sắc và thể hiện niềm tin vào tương lai. Nội dung và cách thức biểu đạt cái tôi trữ tình trong những trường ca của các tác giả xứ Thanh chưa thể hiện nhiều tinh thần dám đổi mới, dám thể nghiệm. Đời sống văn học nghệ thuật xứ Thanh “vắng bóng” những trường ca lấy cảm hứng từ vấn đề thế sự gắn với nhịp sống đời thường…
Trường ca là gì? Và đặc điểm mang tính cấu trúc, thể loại của trường ca ra sao? Cho đến ngày hôm nay, những câu hỏi ấy vẫn tiếp tục được nghiên cứu, tranh luận. Nói như vậy để thấy rằng, trường ca là một thể loại chưa ổn định trong hệ thống các thể loại văn học mà luôn luôn vận động, có sự dịch chuyển, biến hóa sâu sắc. Và công chúng luôn đặt niềm tin, từ những ngồn ngộn chất liệu từ quá khứ đến hiện tại, trong khát vọng vươn lên mãnh liệt của quê hương, các văn nghệ sĩ xứ Thanh sẽ tiếp tục nung nấu, ấm ủ những dự định lớn lao, những mục tiêu vươn tới với thể loại trường ca.
B.T.H.T