Dấu ấn văn hóa trong văn học nghệ thuật Thanh Hóa từ sau năm 1975
Dấu ấn văn hóa trong văn học nghệ thuật Thanh Hóa từ sau năm 1975
MAI HẠNH
Thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ hào hùng đã viết nên khúc tráng ca về dân tộc Việt Nam anh hùng, yêu nước, kiên cường, một dân tộc sẵn sàng hy sinh, chấp nhận nhiều thử thách, hàn gắn vết thương chiến tranh. Trên một nền tảng của niềm tin, khí thế cách mạng là muôn vàn nhọc nhằn thời hậu chiến, gom lại những khát vọng từ đổ vỡ, mất mát về người và của, bắt đầu hành trình xây dựng CNXH trên cả nước. Từ năm 1986, dưới ánh sáng của đổi mới, những bước đi cho dân tộc đòi hỏi sự can trường mạnh mẽ, tự chịu trách nhiệm cao, tính sáng tạo, bứt phá trong một cộng đồng có nhiều cơ hội phát triển. Đầu thế kỷ XXI đến nay, những dấu ấn của đất nước gắn với công cuộc công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế. Trong 50 năm ấy, con người Việt Nam đã biến đổi lớn lao cùng với sự vận động của văn học nghệ thuật góp phần tích cực vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Văn học nghệ thuật đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành, nuôi dưỡng và phát triển văn hóa của cộng đồng. Văn nghệ sĩ xứ Thanh nói riêng, văn nghệ sĩ Việt Nam nói chung, với vai trò là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa, họ tiếp tục sứ mệnh lịch sử “soi đường cho quốc dân đi”, cùng bồi dưỡng nguồn mạch văn hóa của quê hương, đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua trách nhiệm sáng tạo của người nghệ sĩ, văn học nghệ thuật đã có nhiều đóng góp to lớn vào sự phát triển văn hóa Việt Nam, từng bước hiện thực hóa những nội dung của bản “Đề cương về văn hóa Việt Nam” (được đưa ra năm 1943) với mục tiêu xây dựng nền văn hóa Dân tộc - Khoa học - Đại chúng.
Văn học nghệ thuật là nơi bảo tồn, lưu giữ lại một cách tinh tế truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Thông qua tác phẩm văn chương, hội họa, sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, âm nhạc… đã bồi đắp, tô đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, làm sâu sắc hơn các giá trị tinh thần mà thế hệ ông cha hàng ngàn đời truyền lại trong một bối cảnh mới với sự âm thầm, bền bỉ và tinh tế nhất. Văn học nghệ thuật giúp thế hệ sau và cộng đồng nhân loại hiểu, trân trọng những giá trị văn hóa dân tộc, thể hiện tiếng nói của văn hóa - cái hồn cốt của đồng bào ta. Qua những áng sử thi, huyền tích, cổ vật, nhà thơ Vương Anh cùng các nhà nghiên cứu văn hóa đã nhắc nhở độc giả rằng, phải từ những thô mộc, sần sùi, gian khó của thuở hồng hoang lịch sử mới có được diện mạo hào hoa, rực rỡ của hôm nay. Nhiều tác phẩm văn học cách mạng ngợi ca thành tựu, chiến thắng lẫy lừng, mang lại thông điệp truyền cảm hứng về tinh thần quật cường, tính nhân văn cộng sản chủ nghĩa, nhà văn vừa chuyên chở vừa bảo tồn tinh hoa văn hóa của dân tộc. Giá trị văn hóa của dân tộc được khắc họa trong thơ, văn xuôi thể hiện sự thắm thiết tình người, tình nhân ái của đồng bào dân tộc và cho thấy vẻ đẹp của một dân tộc mạnh mẽ, quật khởi của hiện tại.
Việc truyền tải thông điệp, giá trị văn hóa qua các tác phẩm văn học nghệ thuật mang tính dân gian, giàu sức lan tỏa, gợi cảm, sức biểu đạt. Nhờ những áng thi ca của Nguyễn Duy, Đinh Ngọc Diệp, Lâm Bằng, Nguyễn Minh Khiêm; những tác phẩm của Hà Thị Cẩm Anh, Viên Lan Anh, Ngân Hằng… đã tôn lên những nét đẹp của phong tục Việt với tết, rượu xuân, khát khao đoàn tụ gia đình. Các tác phẩm chèo của cố soạn giả Mai Bình là dấu ấn về tâm hồn dân tộc, ngoài những bản sắc, nét thiêng liêng của một nền sản xuất nông nghiệp còn lại thì đó là sự trân trọng đối với giá trị của thế hệ trước để lại: đức hiếu học, cần cù. Trong các tác phẩm văn học nghệ thuật hiện nay vẫn lưu giữ truyền thống hiếu kính với cha mẹ, tổ tiên, thầy cô, nhiều tập tục lâu đời, thấm đẫm lối sống nhân ái, thủy chung, trước sau của đồng bào Việt. Tâm thức song hành đời sống kinh tế, chính trị, tôn giáo, khoa học đều hướng về cội rễ của văn hóa, sự biểu đạt của nó qua ngôn ngữ, hình tượng, các công trình văn hóa, các áng văn mà các nhà nghiên cứu văn hóa và các nhà lý luận phê bình văn học nghệ thuật như: Hoàng Tuấn Phổ, Hoàng Tuấn Công, Cao Sơn Hải, Trần Liên, Lưu Đức Hạnh, Hỏa Diệu Thúy, Lê Tú Anh, Từ Nguyên Tĩnh, Lê Xuân Soan, Nguyễn Hữu Ngôn, Kiều Huyền, Nguyễn Thanh Tâm, Thy Lan… đã chưng cất đam mê bằng những phân tích, lý giải, diễn ngôn sâu sắc. Nhờ có những câu thơ giàu sức gợi của nhiều thế hệ văn nghệ sĩ xứ Thanh (Nguyễn Duy, Mạnh Lê, Nguyễn Minh Khiêm, Đinh Ngọc Diệp, Văn Đắc, Lâm Bằng, Thy Lan, Vũ Quang Trạch…) mà sống dậy một Thanh Hóa bề dày lịch sử anh hùng, lấp lánh niềm tin. Tư tưởng của người làm văn học nghệ thuật đã thấm vào đời sống, vào thiết chế văn hóa một cách thiết thực.
Văn học nghệ thuật tiếp nhận, xây dựng, hình thành các giá trị văn hóa, làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc. Thông qua các tác phẩm văn học nghệ thuật dần định hình và khẳng định bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Với vai trò là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa, văn nghệ sĩ đã góp phần to lớn vào tiếp nhận, xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc. Trong công cuộc này, các chiến sĩ luôn phải thấm nhuần vai trò, vị trí của mình trong việc đấu tranh thói xấu, cái ác, cái phi văn hóa để bảo toàn được cái đẹp, nét văn hóa.
Văn học lan tỏa tính cộng đồng, trách nhiệm xã hội thông qua phản ánh hiện thực xã hội. Văn học nghệ thuật vừa phản ánh hiện thực vừa phê phán, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ và thay đổi. Hoạt động văn học nghệ thuật không phải chỉ là sân chơi, nơi giao lưu mà còn là nơi gắn với ý thức hệ vào hệ giá trị đương đại, bảo tồn cùng hồn cốt của dân tộc. Với vai trò phản ánh như một bộ phận của ý thức xã hội, bản chất sự phản ánh của văn học nghệ thuật đối với vấn đề xã hội còn chậm, mang tính chủ quan của người sáng tác. Văn nghệ sĩ xứ Thanh thể hiện nội lực mạnh mẽ, vượt lên những nghiệt ngã ngáng trở của đời sống văn chương để nuôi dưỡng bồi đắp cho mình tinh thần, lý tưởng cuộc sống, đấu tranh chống lại thói xấu, cái ác. Nhà văn Kiều Vượng từng nói: “Nhà văn sinh ra là để chống lại mọi thứ cường quyền hắc ám đặng góp phần làm giảm bớt đi những đau khổ của con người”. Trong những tác phẩm của lớp văn nghệ sĩ như: Hữu Loan, Nguyễn Duy, Mạnh Lê, Kiều Vượng, Phùng Gia Lộc đến Đinh Ngọc Diệp, Trần Đàm, Từ Nguyên Tĩnh, Lâm Bằng,… có một Thanh Hóa vừa sắc sảo, vừa ẩn tàng, kiêu bạc mạnh mẽ mà đầy sức biểu đạt về tình yêu quê hương, đất nước. Chủ đề tác phẩm hiện nay được văn nghệ sĩ đi sâu vào đề tài đổi mới, sự tận hiến dựng xây, kiến tạo. Tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Minh Khiêm, Vũ Tuyết Nhung, Phạm Tú Anh, An Thư… thấy nỗi đau đương đại, song đó lại là điểm tựa để tâm hồn thăng hoa, tiếp tục nỗ lực, cống hiến, gây dựng giá trị của cá nhân trong thời kỳ mới. Tiếp cận tác phẩm của Viên Lan Anh, Ngân Hằng, Nguyễn Minh Khiêm, Vũ Quang Trạch, Hoàng Quốc Cảnh như sự đãi cát tìm vàng với những tinh thần cao cả, hướng đến cái đẹp từ những gì giản dị nhất, đời nhất. Tiếp cận với những trang ký của Vũ Quang Trạch, Nguyễn Ngọc Hải thấy tình yêu, khát vọng và trách nhiệm đặc biệt đối với công cuộc xây dựng xã hội, trong đó có xây dựng nông thôn mới tại Thanh Hóa. Cái đẹp của mồ hôi, của tháng ngày vắt mình trước ý tưởng lao động, yêu cầu đổi mới, tái tạo một xã hội tốt hơn. Những bức tranh của các họa sĩ: Đỗ Chung, Lê Thanh, Lê Hải Anh, Bùi Ngoan và của nhiều họa sĩ khác trong các triển lãm mỹ thuật gần đây cho thấy đậm hơi thở cuộc sống, sự gần gũi giữa nghệ thuật và cuộc sống, những cuộc đấu tranh giữa cái dung tục và cái đẹp đồng thời sức trường tồn của sự tận hiến vì lý tưởng. Các bài nghiên cứu dân gian, nghiên cứu lịch sử của các nhà nghiên cứu, nhà báo xứ Thanh như: Trần Liên, Nguyễn Hữu Ngôn, Kiều Huyền, Phạm Hoàng Mạnh Hà, Nguyễn Đan Quế, Bùi Hương Thảo… luôn cho thấy tình yêu với quê hương đất nước, sự say sưa, trách nhiệm trong công việc khám phá, nghiên cứu, tìm ra những tinh hoa của hồn cốt, nét linh thiêng của mảnh đất xứ mình. Vẻ đẹp xứ Thanh có trong từng thớ đất, từng câu chuyện kể, giai thoại và ngay cả mỗi số phận, cuộc đời những người lính chiến. Chính trong mỗi “đứa con tinh thần” của người nghệ sĩ biểu đạt văn hóa hướng đến sự say sưa cống hiến, tinh thần dân chủ, khoa học và đại chúng.
Văn học nghệ thuật góp phần bồi dưỡng tư tưởng, đưa ra triết lý giáo dục con người về các giá trị nhân văn, nuôi dưỡng sự đồng cảm và hiểu biết giữa các cá nhân và cộng đồng, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách, hệ giá trị cho con người. Những câu thơ của Đinh Ngọc Diệp, Nguyễn Minh Khiêm, Thy Lan nhắc nhở độc giả một cách nhẹ nhàng về một tình bác ái giữa các miền đất: “Không có vùng quê nào nhỏ bé đâu em/ Sợi khói, mái tranh thành máu thịt thiêng liêng” (thơ Nguyễn Minh Khiêm). Một cách rất nhẹ nhàng, thâm trầm, văn học nghệ thuật góp phần tạo dựng sự gắn kết dân tộc, giáo dục một lòng yêu quê hương, đất nước chân chính, không phân biệt vùng miền, giáo dục thói quen, suy nghĩ lành mạnh với những giá trị tốt đẹp.
Văn học nghệ thuật đảm nhận sự sáng tạo, vun đắp cái mới tạo nên nét đẹp, bản sắc của văn hóa Việt Nam đương đại. Với bản chất sáng tạo, văn học nghệ thuật không ngừng vận động, tạo nên những biến chuyển, tích lũy cái đẹp về ngôn ngữ, hình tượng, một hướng khai thác hoặc hướng nhận định về giá trị. Trong đó, văn học nghệ thuật thêm những cách biểu đạt mới bổ sung vào ngôn ngữ Việt Nam, làm cho tiếng Việt luôn “rung rinh nhịp đập trái tim người”(*).
Nhờ có văn học nghệ thuật làm chỗ dựa, sự can đảm, đối diện và vượt qua cái cũ, cái bất ổn của bản thân, văn nghệ sĩ chân chính đã không ngừng tái tạo mình, từ trong các tác phẩm đã bày tỏ nhận định mới, với những quan điểm mới đầy đủ, bản chất và đúng đắn hơn. Trong bài thơ “Hoa hậu vườn nhà ta” Nguyễn Duy có cách tiếp cận đa diện về cái đẹp, trong đó phức cảm chiêm nghiệm, biểu đạt triết lý nhân sinh sâu sắc. Phạm Thị Kim Khánh, Phạm Tú Anh, An Thư, Phạm Tiến Triều mang đến những khái niệm mới, tục nèm yêu, nghi lễ… truyền thống, hiện hữu thành những nghi lễ của lòng mình với nhận thức mới. Họ chấp nhận những thay đổi, những đau đớn để vươn lên. Đặc tính của văn học nghệ thuật là sáng tạo. Nhà văn, nhà thơ, các nghệ sĩ luôn gắn bó với những đam mê, khả năng thanh lọc thế giới phong phú từ nội tâm sâu sắc, từ đó không chỉ phản ánh mà còn tái tạo ra hàng loạt những giá trị mới, riêng nó. Văn hóa hình thành từ thói quen sáng tạo và tôn trọng sự sáng tạo, sự khác biệt. Văn nghệ sĩ đã có những dự cảm về thành tựu của đổi mới trong thập niên 80 của thế kỷ trước. Ví như Từ Nguyên Tĩnh, Lâm Bằng, Nguyễn Duy với những dự cảm về đời sống xã hội, về một tương lai của con người trong quan niệm về cái đẹp, chiến thắng. Những tác phẩm mới của thế kỷ XXI đã bắt nhịp được điều này. Họ hướng đến sự xông xáo đầy đắp cái mới. Văn học nghệ thuật cũng dạy ta một cách rất mềm dẻo việc nhận thức cuộc sống, biết chấp nhận những đau đớn, thiếu sót để dần hoàn thiện.
Với chức năng giáo dục, văn học nghệ thuật giáo dục mỹ cảm, giáo dục một thế giới quan và nhân cách dần hoàn thiện hơn, biết rung động trước cái đẹp, đấu tranh bảo vệ cái đẹp. Thông qua văn học nghệ thuật, sự đào sâu tìm tòi, tận hưởng sự sáng tạo của nhà thơ. Đồng thời giáo dục sự tôn trọng một cách tư duy, nhận thức trong sáng tác và đời sống đương đại. Với hình tượng “đá”, “dòng sông”, “câu hò”, “mẹ”, “rau má”… Văn học nghệ thuật Thanh Hóa đã tái tạo nên hình tượng đất và người xứ Thanh, trong đó đặc tả sự cần cù, chịu khó, vươn lên, nhưng đồng thời biểu đạt sức mạnh của thân thương, của cội nguồn. Từ chiếc nôi của xứ Thanh, những cây bút lý luận phê bình văn học nghệ thuật dần đông đảo hơn, khả năng khai thác tác phẩm một cách chuyên nghiệp hơn và đa dạng hơn, góp phần vào sự trường tồn của văn học nghệ thuật và văn hóa của quê hương, đất nước.
Hiện nay, người sáng tạo văn học nghệ thuật vừa cần phải biết sử dụng công nghệ thông tin, công cụ AI để tìm hiểu, quảng bá tác phẩm, tiếp cận tác phẩm của đồng nghiệp, lưu trữ dữ liệu nghiên cứu cho mình nhưng cũng lo ngại mối lo tha hóa văn hóa từ công nghệ. Những biểu hiện thực dụng, nhạt lý tưởng, sự đi xuống về văn hóa đọc của một bộ phận dân cư đã cản trở không nhỏ đối với văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung. Lúc này đây, quả thật sứ mệnh của đội ngũ văn nghệ sĩ đối với sự phát triển văn hóa càng trở nên cao cả, bởi chông gai, chiến đấu với kẻ thù giấu mặt - AI - chống lại thói lười biếng, sự cẩu thả và vô trách nhiệm, thờ ơ trước thời cuộc.
Văn học nghệ thuật Thanh Hóa đã khơi dậy mạnh mẽ các giá trị truyền thống của quê hương, đất nước. Gắn bó với lịch sử trường chinh hào hùng của dân tộc, cùng “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, văn học nghệ thuật Thanh Hóa trong 50 năm qua vừa bảo tồn, gìn giữ vừa tái tạo ra những sản phẩm văn hóa (vật thể và phi vật thể), kết hợp nhuần nhuyễn giá trị dân tộc với yếu tố thời đại, yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo… Tác phẩm văn học nghệ thuật góp phần hình thành bền vững đời sống văn hóa lành mạnh, lối sống văn hóa tốt đẹp với giá trị phổ quát, bền vững, có khả năng chi phối, điều chỉnh, định hướng sự phát triển của cả cộng đồng.
M.H
(*): Ý thơ Lưu Quang Vũ.