Khai thác kho tàng văn học dân gian Thanh Hóa và những vấn đề đặt ra
Khai thác kho tàng văn học dân gian Thanh Hóa và những vấn đề đặt ra
NGUYỄN THỊ QUẾ
Trong nhịp sống hiện đại, khi loại hình nghệ thuật thứ 7 (điện ảnh) càng phát triển cùng với các loại hình giải trí đa dạng chiếm hữu sân chơi tinh thần của con người thì văn học nói chung, văn học dân gian nói riêng đang dần mất đi sức hút. Nhưng, trong chiều sâu của sự phát triển thì vốn văn hóa truyền thống với những giá trị tốt đẹp lại là yếu tố bền vững quan trọng để khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc. Ngôn từ vẫn là phương tiện ưu thế, hiệu quả nhất trong việc trao truyền các thông điệp văn hóa.
Văn học dân gian nói chung và văn học dân gian Thanh Hóa nói riêng vẫn tồn hiện trong cuộc sống hằng ngày, trong các nghi lễ, lễ hội ở việc sử dụng các câu tục ngữ, ca dao, hát ru, kể truyện cười, truyện cổ tích hay diễn xướng truyền thuyết trong bối cảnh lễ hội… Đó là đặc trưng của văn học dân gian và cũng là cách để văn học dân gian luôn được tái sáng tạo trở thành di sản của cộng đồng. Kho tàng đồ sộ ấy là nguồn lực, là sức mạnh mềm để phát huy giá trị truyền thống nhưng điều đáng nói là di sản truyền miệng ấy lại chủ yếu ở lớp người cao tuổi nắm giữ nên vấn đề sưu tầm để lưu giữ và nghiên cứu, phát huy giá trị là vô cùng quan trọng.
1. Những điều kiện hình thành nền văn học dân gian Thanh Hóa
Là một vùng đất cổ của nền văn hóa Đông Sơn, ngay từ thời kỳ tiền sử, Thanh Hóa đã là cái nôi của loài người, một trong những địa phương lưu giữ vết tích của nền văn hóa Đa Bút, Đông Sơn: Di chỉ khảo cổ học Đông Sơn, núi Đọ, hang Con Moong... với những di vật từ thời kỳ đồ đá: rìu, khuyên tai; thời đại kim khí: trống đồng, mũi tên đồng, sanh đồng, đồ trang sức bằng đồng,… của lớp văn hóa bản địa thời kỳ tiền sử và sơ sử là những dấu ấn thiêng liêng trong tâm thức người Việt và các dân tộc anh em cùng quần cư.
Với địa hình phong phú, đa dạng, đầy đủ cả rừng núi, đồng bằng và miền biển, Thanh Hóa đã được mệnh danh là “Việt Nam thu nhỏ”, là “Ile de France - của An Nam”(1) trong mắt các nhà Đông Dương học của Pháp. Không chỉ vậy, xét trên phương diện địa lý, Thanh Hóa trung chuyển giữa Bắc Bộ với Trung Bộ được coi là “yết hầu” của quốc gia Đại Việt, nên Thanh Hóa trở thành vị trí địa chiến lược quan trọng. Bên cạnh đó, Thanh Hóa cũng là vùng đất có truyền thống lịch sử lâu đời; là đất thang mộc của các triều vua Lê, là nơi phát tích của chúa Trịnh, là đất quý hương của chúa Nguyễn (Gia Miêu ngoại trang). “Trên bản đồ địa - chính trị Đại Việt, Thanh Hóa nằm ở thế thượng phong, phía Bắc là đồng bằng sông Hồng - vùng trung châu quyền lực, phía Nam là xứ Nghệ - vùng phên dậu truyền thống của nước nhà. Vùng đất mà trở thành “trục xoay” và “đòn bẩy” có tính quyết định đến nhiều diễn biến chính trị, quân sự trong tiến trình lịch sử Việt Nam”(2).
Vùng đất phên dậu của Tổ quốc cũng là nơi “đất lành, chim đậu”, là địa bàn quần cư của nhiều dân tộc anh em: Kinh, Mường, Thái, Dao, Mông, Thổ, Khơ Mú... Vì thế, văn hóa xứ Thanh vừa mang những nét độc đáo thể hiện bản sắc tộc người vừa đa dạng (sự giao lưu giữa các dân tộc anh em) trong thống nhất của văn hóa Việt Nam. Suốt chiều dài lịch sử, vùng đất Thanh Hóa luôn là “trấn quan trọng” rồi trở thành “nơi căn bản nhất của nước Nam”(3) (khẳng định của học giả Le Breton - một trí thức người Pháp từng làm đốc học tại Thanh Hóa) - địa linh, nhân kiệt ấy đã sản sinh, nuôi dưỡng, cất giữ “linh hồn” của pho văn hóa đồ sộ, là tài sản quý báu trao truyền cho ngàn đời sau.
Không chỉ vậy, nhà bác học Phan Huy Chú còn khẳng định về xứ Thanh: “Vẻ non sông tươi tốt, chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều văn nho... Bởi đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường, vượng khí chung đúc, xứng đáng đứng đầu cả nước”(4). Thanh Hóa là mảnh đất sản sinh các nhân kiệt “đời nào cũng có” khiến “vua biết mặt, chúa biết tên”, lĩnh vực nào cũng được xướng tên,… đã trở thành niềm tự hào của đất thang mộc, quý hương. Họ đã trở thành những người góp phần làm nên hào sảng Đông Sơn, hào khí Đông A, hào khí Lam Sơn, hừng hực phong trào Cần Vương yêu nước, tinh thần cầu thép Hàm Rồng… Những con người tài danh ấy đã góp công ghi dấu một tính cách, một bản lĩnh Thanh, trở thành một phần định danh văn hóa xứ Thanh.
Những điều kiện tự nhiên và xã hội đã tạo nên một sắc thái Thanh đậm nét. Trong kho tàng Folklore ấy, nghệ thuật ngôn từ chiếm giữ vai trò quan trọng, giải mã tất cả những đặc trưng văn hóa xứ Thanh, đồng thời trở thành yếu tố kiến tạo di sản văn hóa phi vật thể trong vùng.
2. Một số thành quả trong sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Thanh Hóa
Kho tàng văn học dân gian đồ sộ về số lượng, phong phú về thể loại của cả dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số: Mường, Thái, Dao, Mông, Thổ, Khơ Mú… cùng chung sống trên địa bàn. Văn học dân gian Thanh Hóa hội tụ đầy đủ các loại hình của văn học dân gian Việt Nam: từ tự sự dân gian (thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười) đến trữ tình dân gian (ca dao, dân ca), luận lý dân gian (tục ngữ, câu đố), sân khấu dân gian, và cả biệt loại: sử thi, truyện thơ với sắc thái xứ Thanh đậm nét. Trong số đó, nổi bật lên: truyền thuyết về linh thần: Thần Độc Cước, Bà Triều, Thần Đồng Cổ… truyền thuyết danh nhân Bà Triệu, Trần Khát Chân, Lê Phụng Hiểu, Đào Cam Mộc,… chùm truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, về các địa danh linh thiêng hồn sông núi; truyện cười Trạng Quỳnh, Xiển Bột; những làn điệu dân ca, vui tươi, trong trẻo (Đi cấy - bản nông lịch của cư dân nông nghiệp); điệu hò sông Mã khỏe khoắn, hào sảng của người Việt. Bên cạnh đó, kho tàng đồ sộ của các dân tộc anh em, còn kể đến: thiên sử thi “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường, những điệu xường, rang, bọ mẹng, khặp, gầu xuống… dân ca, nghi lễ, phong tục linh thiêng nơi sơn cước; những thiên truyện thơ mượt mà, trữ tình “Păm Khanh” (Thái), “Nàng Nga Hai Mối”, “Nàng Ờm chàng Bông Hương” (Mường)… Không thể liệt kê, điểm diện hết sự phong phú của văn học dân gian Thanh Hóa trên phương diện thể loại, ngoài ra còn biến thể, tiểu loại… Chừng ấy, cũng đủ làm nên diện mạo về văn học dân gian Thanh Hóa.
Nhà nghiên cứu Lưu Đức Hạnh từng đưa ra nhận xét: “Nhìn trong sự so sánh toàn hệ thống, VHDG Thanh Hóa có 3 đặc sắc. Thứ nhất, thể loại nổi bật nhất - truyền thuyết. Trong đó điểm sáng là Truyền thuyết về Lê Lợi… Thứ hai, nơi sản sinh đặc sản Truyện cười Trạng Quỳnh. Nhân vật cười dân gian ở Việt Nam và thế giới không ít, song không ai nhiều “chuyện” (hơn 40 chuyện), có mở đầu, kết thúc, hành trạng lớp lang như Trạng Quỳnh. Lại duy một Trạng Quỳnh là “người của nước”; các vị kia đều “dân địa phương”… Thứ ba, tinh hoa của ca dao Việt Nam là ca dao Thanh Hóa. Xin đưa một dẫn chứng xác đáng. Khi làm Bố chánh và Tổng đốc Thanh Hóa (1889-1906), Vương Duy Trinh (? - ?) đã thực hiện việc biên soạn bằng một tinh thần trọng thị Thanh Hóa quan phong”(5). Một số danh Nho đã cho văn bản hóa, ghi chép lại sáng tác của văn học dân gian Thanh Hóa vào phương chí, thư tịch đã góp phần lưu giữ nguồn di sản ngôn từ quý báu này.
Bên cạnh các công trình Hán Nôm cố định hóa văn bản văn học dân gian: “Thanh Hóa quan phong” (ca dao), “Thanh Hóa kỷ thắng” (truyện về cảnh thắng tích), “Thanh Hóa chư thần lục” (thần tích - sự tích về các vị thần); còn các công trình tiêu biểu (của các thế hệ yêu mến Folklore đã nỗ lực, miệt mài sưu tầm, khảo cứu) như: “Sưu tầm ca dao, dân ca Thanh Hóa” (Lê Huy Trâm và nhóm Lam Sơn), “Tuyển tập truyền thuyết Thanh Hóa” (Đào Huy Phụng, Lưu Đức Hạnh (chủ biên), Trần Thị Liên, Cao Sơn Hải, Hoàng Tuấn Công), “Tục ngữ dân ca Mường” (Minh Hiệu), “Truyện cổ Mường” (Minh Hiệu, Hoàng Anh Nhân), “Mo lên trời” (Hoàng Anh Nhân), mo Mường (Vương Anh)… Cụm công trình về văn học dân gian Mường: “Những bài ca đám cưới người Mường Thanh Hóa”, các truyện thơ: “Nàng Nga - đạo Hai Mối”, “Út Lót Hồi Liêu”, “Nàng Ờm chàng Bông Hương”, “Tục ngữ Mường”… của Cao Sơn Hải,… là những đóng góp lớn, giá trị. Cùng với công tác sưu tầm còn kể đến các công trình nghiên cứu về văn học dân gian Thanh Hóa: “Góp phần nghiên cứu xường giao duyên của người Mường Thanh Hóa” (Mai Thị Hồng Hải), “Truyện thơ Thái ở Việt Nam - Đặc điểm thi pháp của thể loại” (Lê Thị Hiền), “Tục ngữ, ca dao cổ truyền về sản vật nông nghiệp xứ Thanh” (Nguyễn Thị Quế)… Ngoài ra, văn học dân gian Thanh Hóa được đan lồng trong các quá trình địa chí, công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam: “Tứ Bất Tử” (Vũ Ngọc Khánh), “Truyện nữ thần Thánh Mẫu” (Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc),… và nhiều bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa học, chuyên ngành, tạp chí địa phương…
Như vậy, kho tàng văn học dân gian Thanh Hóa đã được quan tâm sưu tầm và nghiên cứu. Đây là những đóng góp rất quý báu, đáng trân trọng, tạo động lực cho hành trình khai thác di sản văn học dân gian phía trước. Tuy nhiên, những công trình đã công bố là phần còn rất nhỏ trong “mỏ quặng ngôn từ dân gian” còn đang trầm tích; là phần nổi của “tảng băng” chìm, đặc biệt là kho tàng văn học dân gian của các dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa.
3. Khai thác vốn văn học dân gian Thanh Hóa đang trầm tích
Phần này, chúng tôi đề cập đến nguồn văn học dân gian tồn hiện trong đời sống, chưa được sưu tầm, hoặc sưu tầm chưa công bố thành các công trình; hoặc các công trình nghiên cứu trên ngữ liệu sưu tầm để phát huy giá trị của các sáng tác dân gian đó.
Có thể khẳng định, Chi hội Văn nghệ dân gian Việt Nam ở Thanh Hóa (thuộc Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam), Ban Văn nghệ dân gian (thuộc Hội VHNT Thanh Hóa) đã có những đóng góp không nhỏ trong quá trình sưu tầm, bảo tồn, lưu giữ các di sản văn hóa truyền thống. Trong đó, văn học dân gian của người Kinh ở Thanh Hóa được quan tâm trước hết như một điều tất yếu bởi các thế hệ nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành Văn học dân gian chủ yếu là người Kinh.
3.1. Hướng khai thác văn học dân gian của người Việt (Kinh)
Xét về loại hình tự sự: Nếu như truyện thần thoại của người Kinh không còn nhiều và không rõ nét thì nguồn truyền thuyết lại vô cùng phong phú, trong đó đã thâu nạp, dung hợp những thần thoại đời sau thành truyền thuyết. Công trình “Truyền thuyết Lam Sơn”, “Tuyển tập truyền thuyết Thanh Hóa” đã nói lên điều này. Dễ dàng nhận thấy yếu tố sự thật lịch sử và tầm ảnh hưởng vào địa hạt tín ngưỡng đã làm cho truyền thuyết có sức hấp dẫn và trường tồn. Vì lẽ đó, sự thêu dệt truyền thuyết luôn được người dân quan tâm. “Ở xứ Thanh, hầu như mỗi ngọn núi, dòng sông, mỗi làng, bản, vùng đất đều gắn với một, hai hay ba truyền thuyết và trong mỗi truyền thuyết đều mang giá trị, ý nghĩa lịch sử sâu sắc”(6). Trên cơ sở các sưu tầm truyền thuyết dày dặn thì các công trình nghiên cứu truyền thuyết Thanh Hóa còn ít, chưa tương xứng với nguồn truyện. Nguồn truyện cổ tích của người Việt một phần hòa vào truyền thuyết phong vật, một phần giao thoa với truyện cổ tích các dân tộc ít người nhưng màu sắc Kinh lại nhạt hơn. Trong loại hình tự sự dân gian Thanh Hóa, truyện cười về Trạng Quỳnh, Xiển Bột nhưng “Truyện Trạng Quỳnh với ai, lúc nào, thời nào cũng hấp dẫn, lôi cuốn, là chuỗi ngọc vô giá của văn học nước nhà”(7) được tập hợp phổ biến thành tập truyện cười nhưng việc nghiên cứu về giá trị thi pháp, bối cảnh,… của nhóm truyện này cũng còn khá khiêm tốn.
Ngược lại với loại hình tự sự, thì Thanh Hóa sở hữu kho tàng ca dao, dân ca độc đáo. Ca dao, dân ca Thanh Hóa được xướng tên cụ thể với: Hò sông Mã, Dân ca Đông Anh (bài Đi cấy)… Tuy nhiên, chủ đề của ca dao không khép lại ở những bài ca lao động khỏe khoắn, vui tươi,… mà còn ở chủ đề tình yêu, tình cảm gia đình, ở những chủ đề hẹp trong các mối quan hệ văn hóa: về văn hóa làng nghề, về sản vật nông nghiệp, về giới, về địa danh, về tín ngưỡng, lễ hội, về các loài hoa, về ẩm thực,… đó là những nguồn ngữ liệu quý giá, phong phú cần được sưu tầm và nghiên cứu khai thác các giá trị của các chủ đề đó nhằm phát huy giá trị truyền thống trong thời hiện đại. Thể loại tục ngữ người Việt ở Thanh Hóa cũng là kho tàng chứa đựng tinh hoa trong ứng xử, giao tiếp song những giá trị về phương ngữ, về tri thức dân gian trong ngành nghề truyền thống, về dược liệu, về những kiêng kỵ dân gian, cần được quan tâm hơn. Bên cạnh đó, nghiên cứu dân ca Thanh Hóa trong bối cảnh diễn xướng cũng là một hướng khai thác thú vị.
Nhìn một cách tổng thể, nguồn sưu tầm văn học dân gian của người Việt ở phương diện thể loại đã được quan tâm, khai thác nhưng công trình nghiên cứu trên nền của các ngữ liệu đó lại chưa được quan tâm, một phần do các công trình sưu tầm không được công bố rộng rãi nên giới nghiên cứu học thuật, sinh viên, học viên, nghiên cứu của các trường Đại học chưa có cơ hội được tiếp cận. Vì vậy, nguồn ngữ liệu sưu tầm được đánh thức trong dân gian nhưng lại chưa thực sự “thức” trong các công trình nghiên cứu chuyên sâu.
3.2. Hướng khai thác văn học dân gian của các dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa
Các dân tộc thiểu số nói chung và ở Thanh Hóa nói riêng có một kho tàng văn học dân gian phong phú, đa dạng phản ánh đời sống vật chất, tinh thần, phong tục, tập quán, tín ngưỡng,… của đồng bào nơi đây. Ở Thanh Hóa, hai tộc người Mường, Thái chiếm tỉ lệ dân số đông hơn cả đồng thời cũng đóng góp di sản văn học phong phú hơn. Vì vậy, việc khai thác kho tàng văn học dân gian của hai tộc người này cũng được quan tâm hơn.
Kho tàng văn học dân gian Mường được khai thác sớm và ở nhiều phương diện thể loại, từ truyện cổ Mường đến những tác phẩm đồ sộ: sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, đến truyện thơ: Nàng Nga Hai Mối, Út Lót Hồi Liêu, Nàng Ờm chàng Bông Hương… Xường: Xường giao duyên, xường đám cưới, hát ru, rang, bọ mẹng… Mo ma: Mo T’lêu và những câu tục ngữ ngắn gọn trong đời sống. Tên tuổi của các nhà sưu tầm, biên soạn, biên dịch, nghiên cứu lĩnh vực này như: Minh Hiệu, Hoàng Anh Nhân, Vương Anh, Bùi Chí Hăng, Cao Sơn Hải… Chỉ nghe tên cũng thấy sự đồ sộ, quy mô của vốn văn học Mường đã được sưu tầm cố định hóa thành văn bản và khai thác một số giá trị từ nguồn sưu tầm nhưng chủ yếu ở sử thi và truyện thơ. Nhưng, trong đời sống văn hóa Mường, những truyện kể về hoa văn trên trang phục, chăn màn, nhà cửa; những bài hát ru, hát kể chuyện thơ gần như chỉ còn lại trong thế hệ “cây cao, bóng cả”, trong tâm thức những người được trải nghiệm cũng đã trung tuổi. Thế hệ trẻ gần như không biết, không hiểu về nguồn gốc của các tác phẩm văn học dân gian của dân tộc mình, hiện hữu trong nỗi lo mà nhà Mường học Cao Sơn Hải tâm sự: “Tôi luôn đau đáu, lo tiếc vì người trẻ của đất Mường bây giờ không hiểu nhiều về văn hóa của chính dân tộc mình, không phải vì họ không yêu mà vì quá nhiều “cơn mưa văn hóa lạ” dội về thời hiện đại”.
Cùng với văn học dân gian Mường, kho tàng văn học dân gian của dân tộc Thái cũng vô cùng đồ sộ với thần thoại Thái, cổ tích về hoa văn, truyền thuyết về Tư Mã Hai Đào, sử thi sáng thế “Ẳm ệt”, về truyện thơ “Toọi Oóc nặm đìn”, “Khăm Panh”, “Chuyện tình Pha Dua” đến các điệu Khặp, hát gọi vía, tục ngữ Thái… Cũng giống như văn học dân gian của người Mường, nguồn văn học dân gian của người Thái được khai thác ở dạng sưu tầm nhiều hơn ở góc độ nghiên cứu. Vì thế, những làn điệu Khắp cải puông (hát đám cưới) sẽ mai một rồi “biến mất” khi chưa được sưu tầm định bản mà các đám cưới truyền thống dần giản lược và theo xu hướng hiện đại. Các truyện kể, khắp, tồn hiện trong dân gian khá nhiều cần được sưu tầm, cố định hóa để vừa bảo tồn, vừa làm ngữ liệu nghiên cứu văn học và văn hóa. Các tên tuổi gắn với sưu tầm văn học dân gian Thái: Hà Nam Ninh, Hà Văn Thương, Hà Văn Ngợi, Hà Văn Hưng, Phạm Xuân Cừ, Cao Bằng Nghĩa là những người Thái chính hiệu biết chữ Thái và có thể phiên dịch. Đội ngũ nghiên cứu văn học gần như không biết tiếng Thái, chỉ tiếp cận thứ cấp qua bản dịch sang tiếng Việt.
Hầu hết văn học dân gian của người Thổ, người Dao, người Mông, Khơ Mú ở Thanh Hóa chưa có những công trình sưu tầm và nghiên cứu. Điều này liên quan đến đội ngũ sưu tầm, nghiên cứu không biết tiếng dân tộc, người dân tộc lại chưa thực sự có phương pháp để ghi chép, tập hợp để công bố. Sự lệch pha này đã làm cho những sáng tác văn học dân gian của các dân tộc ít có cơ hội đến với mọi người, phần lớn nó chỉ xuất hiện trong các nghi lễ, trong đời sống khép kín của cộng đồng. Vì thế, kho tàng văn học dân gian của người Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú vẫn là một khoảng trống trong sưu tầm và nghiên cứu.
Kho tàng văn học dân gian Thanh Hóa rất đồ sộ và chất lượng. Đó là tinh hoa dân gian của cha ông để lại cho con cháu. Tài sản tinh thần ấy có khi bình dị như những câu chuyện hằng ngày nhưng có khi lại triết lý, thâm sâu về tri thức có giá trị xuyên thời đại. Kho tàng ngôn từ truyền miệng ấy phần lớn vẫn nằm lại trong đời sống cộng đồng, trong tâm thức của lớp người cao tuổi. Họ như những người nắm “chìa khóa” ngôi nhà chứa đựng nguồn di sản, nếu một mai họ về cõi mà mang theo “chìa khóa” khi còn “đóng cửa”, khi chưa kịp trao truyền thì đồng nghĩa với việc những di sản văn học dân gian xứ Thanh đặc biệt là văn học dân gian các dân tộc thiểu số sẽ dần bị “khai tử” vĩnh viễn.
N.T.Q
Tài liệu tham khảo:
1. Ile de France: Miền trung tâm xưa của Pháp.
2. Địa chí Thanh Hóa, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, tr 78.
3. Xin xem: H. Le Breton, Tỉnh Thanh Hóa.
4. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Giáo dục, tr 46.
5. Lưu Đức Hạnh, Những đặc sắc của văn học Thanh Hóa,
https://tapchixuthanh.vn/NewsDetail.aspx?Id=3221
6. Xem thêm: Tuyển tập truyền thuyết Thanh Hóa của nhóm Đào Huy Phụng, Lưu Đức Hạnh, Cao Sơn Hải, Trần Thị Liên, Hoàng Tuấn Công sưu tầm.
7. Lưu Đức Hạnh, Những đặc sắc của văn học Thanh Hóa...
- Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Giáo dục.
- H. Le Breton (2022), Thanh Hóa tươi đẹp, Nxb Thanh Hóa.
- Lưu Đức Hạnh, “Những đặc sắc của văn học Thanh Hóa”, trên https://tapchixuthanh.vn/NewsDetail.aspx?Id=3221
- Hoàng Tuấn Phổ (2019), Tinh hoa văn hóa xứ Thanh, Nxb Thanh Hóa.
- Đào Huy Phụng, Lưu Đức Hạnh (đồng chủ biên). Tuyển tập truyền thuyết Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa.
- Tỉnh ủy - HĐND - UBND tỉnh Thanh Hóa (2004), Địa chí Thanh Hóa, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia.