Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Văn hóa   /   Thắng cảnh núi Nưa và Am Tiên cổ tích - Phạm Tấn
Thắng cảnh núi Nưa và Am Tiên cổ tích - Phạm Tấn

 

       Ngàn Nưa trong sử sách 
       Núi Nưa là tên Nôm mà dân gian thường gọi, còn tên chữ mà sách xưa nhắc tới lại là Núi Na. Đây là dãy núi cao nhất ở vùng đồng bằng châu thổ phía nam Thanh Hóa và cũng là dãy núi cuối cùng chạy theo hướng tây bắc đến đông nam, được bắt đầu từ nông trường Tây Hiếu (Nghệ An) qua các huyện Như Xuân, Như Thanh đổ về. Trên đất Triệu Sơn và Nông Cống cũ, núi có chiều dài tới gần hai chục kilômét đã làm nên bức trường thành đông nam tự nhiên với một thung lũng rộng lớn chạy suốt từ Hợp Thành, Hợp Lý đến Thọ Tiến, Thọ Tân của huyện Triệu Sơn và được khép lại ở mạn đông bắc bởi dãy đồi đất đỏ thấp tròn như những bát úp; về phía đông núi Nưa là đồng bằng châu thổ, đất đai màu mỡ, từ xa xưa đã là vùng dân cư trù mật. 
       Do vị trí và hình thế đặc biệt của mình mà vốn dĩ từ rất lâu, núi Nưa đã được xem như một ngọn núi chủ của đồng bằng xứ Thanh vậy. Có lẽ vì thế mà ở thế kỷ XV, khi chép về núi sông ở Thanh Hóa, Nguyễn Trãi chỉ nêu một cách khái quát có mỗi một câu: “Na, Tùng và Lương ở về Thanh Hóa. Na, Tùng là tên hai núi, Lương là tên sông”(1). Khi chú thích về núi Na (Na Sơn), giáo sư Hà Văn Tấn ghi: “Núi Na (Na Sơn) tức là núi Nưa ở làng Cổ Định (trước gọi là Cổ Ninh, tục gọi là Kẻ Nưa), huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa”. Từ năm 1964 đến nay, do sự chia lại huyện, làng Cổ Định, xã Tân Ninh (của Nông Cống trước đây) lại thuộc về huyện Triệu Sơn. 
       Ngoài Dư địa chí của Nguyễn Trãi, núi Nưa còn được rất nhiều sử sách ghi chép đến như: 
       - Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào đời Tự Đức (1848-1883) do Á Nam Trần Tuấn Khải phiên dịch, Nhà văn hóa Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn xuất bản năm 1960 đã chép một cách cụ thể và chi tiết về núi Na (tức núi Nưa) như sau: “ở sở Tinh Mễ, xã Quần Ngọc, phía tây huyện Nông Cống có tên là Khu Na Sơn (Núi đuổi ma). Tương truyền núi này có rất nhiều ma quỷ, trước đây có một vị sơn tăng đến đây đọc chú, dần dần quỷ biến mất đi cho nên gọi tên như thế. Mạch núi từ huyện Lôi Dương đổ lại, từng dãy liền tiếp, dài suốt mười mấy dặm trường. Nơi đây có 4 ngọn nước đổ dồn, là một nhánh bên hữu của Tỉnh này. Nhà phong thuỷ (nhà địa lý) nói là 7 phiến Long và 7 phiến Hổ, tức là nơi này. Trong các ngọn này có một ngọn chót vót cao nhất, trên có ngôi chùa cổ, tục gọi là Am Tiên, phía tả có một ngọn núi, trên có động, tối mà sâu, dài mà hiểm. Triều Trần có một người hái củi ẩn cư nơi đó...”(2) - Sách Thanh Hóa tỉnh chí, tập II, bản dịch của Nguyễn Mạnh Duân viết: “Na Sơn tức núi Nưa ở Cổ Định, Nông Cống. Lại còn gọi là núi Khu Than. Tục truyền núi ấy trước kia có nhiều quỷ. Sau có nhà sư đọc lời chú thì quỷ yên cho nên gọi thế”. 
       Mạch núi từ huyện Thọ Xuân thời cổ mà đến. Sườn núi quanh co suốt mấy chục dặm, đến đây mọc lên ngọn núi đá, chỗ um tùm và cao nhất tức chỗ núi ấy. Phía ngoài có sông nhánh hợp lưu, giữa có động, thế núi trắc trở và sâu thẳm. 
       Khoảng thời Trần - Hồ có tiên lấy củi ẩn ở đấy. Hán Thương sai gọi không chịu đến, cả giận sai người phá núi ấy. Truyện ghi trong Truyền kỳ mạn lục có lời kiềm chú đất ấy rằng: “Na Sơn long hổ các nhất phiến, nhất hô thiên hạ biến” (Núi Nưa, Long, Hổ mỗi thứ đều có một, gọi một tiếng sẽ đi khắp thiên hạ). Vì núi ấy là chi bên hữu của đất trong tỉnh hạt. Dáng tốt đẹp thì không bằng núi Thần Phù nhưng mà có động cây xanh, có sông biếc bao quanh, thế núi có từ xa, khí núi thì hùng nên núi tự nổi tiếng ở vùng giao giới của hai đất Hoan Ái(3), v.v...
       Như vậy, khi viết về núi Nưa (Na Sơn) sử sách và địa chí xưa chỉ tập trung mô tả về ngọn núi cao nhất ở vùng đất Cổ Định (Kẻ Nưa), nay thuộc xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn. Đây chính là quả núi nổi tiếng của cả xứ Thanh và miền Hoan Ái cũ. Đặc biệt hơn, núi Nưa của quận Cửu Chân - xứ Thanh thời nghìn năm Bắc thuộc lại là địa điểm căn cứ cuộc khởi nghĩa Bà Triệu chống lại nhà Đông Ngô vào năm 248 làm “Toàn Châu Giao chấn động”. Dưới chân núi Nưa là khu đền Nưa cổ kính thờ Bà Triệu - người nữ anh hùng tiên liệt mà dân khắp vùng đều rất ngưỡng mộ. Còn trên đỉnh cao nhất của Ngàn Nưa - nơi mà sử sách xưa nhắc đến động núi của vị ẩn sĩ thời Trần - Hồ chính là điểm danh thắng kỳ thú và nổi tiếng khắp cả nước mà dân gian vẫn quen gọi là động Am Tiên (hay đỉnh Am Tiên của núi Nưa) - nơi có độ cao so với mực nước biển là 538m. Đây cũng là địa điểm chứng kiến, ghi nhận rất nhiều truyền thuyết sinh động về ông Tu Nưa huyền thoại và Bà Triệu cùng nghĩa quân trong những ngày đóng căn cứ tại đây. 
       Một vùng đất thiêng
       Núi Nưa và đỉnh Am Tiên không chỉ là nơi luyện chí, mài gươm của những anh hùng cứu thế chống xâm lược mà còn là vùng đất “thiêng” nổi tiếng khắp các miền gần, xa bởi ở đây (tức Na Sơn) còn lưu truyền sự tích "núi đuổi ma". 
"Tương truyền núi này có nhiều ma quỷ, trước đây có một vị sơn tăng đến đây đọc chú, dần dần quỷ biến mất đi, cho nên gọi tên như thế... Nơi đây có 4 ngọn nước đổ dồn, là một nhánh bên hữu của tỉnh này. Nhà phong thuỷ (nhà địa lý) nói là 7 phiến Long và 7 phiến Hổ, tức là nơi này. Trong các ngọn này có một ngọn chót vót cao nhất, trên có ngôi chùa cổ, tục gọi là Am Tiên. Phía tả có một ngọn núi, trên có cái động, tối mà sâu, dài mà hiểm. Thời Trần có một người hái củi ẩn cư nơi đó (có người nói là Hoàng My tiên sinh)...”(4). 
       Câu chuyện “Người tiều phu núi Na” (núi Nưa) đã được Nguyễn Dữ - một tác giả ở thế kỷ XVI ghi chép một cách chi tiết: “Đất Thanh Hóa phần nhiều là núi đất, bát ngát bao la đến mấy ngàn dặm. Trong đó có một ngọn núi cao chót vót, tên gọi là núi Na. Núi có động, dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu, bụi trần không bén tới. Hàng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đổi lấy cá và rượu cốt được no say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông già trẻ con dưới làng lại nói chuyện trồng dâu, trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên, nhà cửa, tiều phu chỉ cười mà không trả lời. Mặt trời ngậm núi lại thủng thẳng về động. Người đương thời cho là người thuộc hạng Thần Môn, Tiếp Dư chứ Thái Hòa trở xuống đều không đủ kể...”(5). 
       Cũng như sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, các sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Nam nhất thống chí (thời Tự Đức và thời Duy Tân) của Quốc sử quán triều Nguyễn đến các sách Thanh Hóa tỉnh chí của Nhữ Bá Sĩ và Thanh Hóa kỷ thắng của Vương Duy Trinh, v.v... ghi chép có dài, ngắn khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một nội dung phản ánh về việc người tiều phu núi Nưa - tức vị ẩn sĩ thời Trần - Hồ đã từng giấu mình ở nơi núi sâu, rừng thẳm - Am Tiên - Ngàn Nưa để tu tiên đắc đạo, cũng vì không chịu cộng tác với nhà Hồ nên đã bị Hồ Hán Thương cho đốt núi. Vì vậy, nên từ đó trở đi, khu vực Am Tiên của vị ẩn sĩ thời Hồ đã trở thành khu vực thiêng; đến thời Lê và thời Nguyễn, các ngôi chùa - miếu đã lần lượt được xây dựng để du khách gần, xa hành hương đến ngoạn cảnh, đề thơ và cầu trường sinh, bất tử...
       Như vậy, có thể thấy rõ ràng, Đạo Tu Tiên - một loại hình biến đổi ít nhiều từ Đạo Giáo ở Trung Quốc, tuy được truyền sang nước ta từ thời Bắc thuộc, nhưng mãi tới thời Trần - Hồ (thế kỷ XIV) đến được vùng núi Nưa của Nông Cống - Triệu Sơn, mà Am Tiên chính là một trung tâm huyệt đạo linh thiêng để người đương thời truyền tụng, ước mong được đến dẫu chỉ là một lần để mong sao thoát khỏi được bụi trần nhiều vương vấn. Từ trung tâm Am Tiên - đạo Giáo thời Trần Hồ trở đi đã phát hiện khá nhiều ở các vùng xung quanh núi Nưa; hầu như các đỉnh cao của hệ thống núi Nưa (mà dân gian vẫn gọi là Ngàn Nưa) đều có dấu chân của các đạo sĩ tu tiên đó là các đỉnh Các Sơn, Tượng Sơn, núi Sẻ, Bể Cạn... có những dấu tích về Bàn Cờ Tiên, Chùa Tiên, Giếng Tiên, vườn Đào Tiên và vườn Thuốc Tiên mang đậm dấu ấn truyền thuyết, huyền thoại rất ly kỳ, hấp dẫn như trong truyện các tiên ông xuống chợ, hoặc các phép màu linh nghiệm “làm quan tiền thành con rắn”, “làm thủ lợn thành đầu lâu”, “làm chiếc lá thành con cá”, v.v... Ngoài ra còn có cả truyện “Ông Tu Nưa và vua Minh Mệnh”, hay “Ông Tu Nưa giúp người đời chống lại bọn quyền thế cường hào, gian ác”... Cho đến nay, các câu chuyện truyền thuyết về ông Tu Nưa (tức ông tu đạo thần tiên trên núi Nưa) vẫn còn được lan truyền một cách khá phổ biến ở vùng đất Kẻ Nưa - Cổ Định; điều đó chứng tỏ, đạo Tu Tiên trên đỉnh Am Tiên là một loại hình tín ngưỡng đã từng phát triển và tồn tại khá dài ở vùng đất này. Nhưng có điều đặc biệt, trên đỉnh cao núi Nưa, với khu đất khá bằng phẳng chỉ độ vài mẫu, người ta thấy vừa có cả am, chùa, miếu đến Giếng Tiên, Ao Hóp, vườn đào và cả không gian “mây trắng nhởn nhơ vờn đỉnh núi”, rồi rừng núi đại ngàn ở tiếp phía tây, tất cả đều tạo ra một không gian thiêng thật là đặc biệt. Chính sự hoà hợp giữa Đạo Giáo, Đạo Phật và Đạo Mẫu trên đỉnh Am Tiên là một nét đặc trưng điển hình ở vùng đất “7 phiến Long, 7 phiến Hổ” như các nhà phong thuỷ xưa đã nói: Trước năm 1945, ở chỗ am - đền - miếu thờ trên đỉnh núi Nưa (Am Tiên), người ta còn thấy hiện tượng Đạo Tu Tiên của Đạo Giáo bị biến tướng thành Đạo Phù thuỷ với sự xuất hiện của các “phụ đồng Tiên Nưa” (tức những người hành nghề đạo cốt) vừa đọc thần chú, vừa làm phép và cho chữ mang nội dung thần bí để báo hiệu về số mệnh con người, v.v...
       Hiện nay, khu vực thiêng Am Tiên, bao gồm chùa - miếu - đền và Giếng Tiên, Ao Hóp, Huyệt đạo đã trở thành nơi linh thiêng để cho con người cầu cúng với ước mong cho đời sống có được phúc - lộc - thọ - khang - ninh. 
       Nơi rung động hồn thơ
       Là danh sơn kỳ tú nổi tiếng của đất nước, cho nên, từ xa xưa, núi Nưa đã trở thành điểm hò hẹn của rất nhiều kẻ sĩ và tao nhân, mặc khách. Nhiều người đã lấy núi Nưa làm đề tài sáng tác, ngâm vịnh, mà hiện nay qua một số sách xưa còn lại, chúng ta vẫn bắt gặp những bài thơ về núi Nưa thật đặc sắc. 
       Ở thế kỷ XVI, Nguyễn Dữ vì có một mối tình rất nồng nàn với núi Nưa nên đã có những vần thơ lai láng. Ông đã mượn tích truyện Người tiều phu núi Na để sáng tác bài Na Sơn ca (bài ca về núi Na) như sau: 
       Phiên âm: Na Sơn chi hữu thạch toàn quan/ Thu thương thương/ Yên mịch mịch/ Thủy sàn sàn/ Triêu hồ ngô xuất/ Mộ hề ngô hoàn/ Hữu y hề chế kỹ/ Hữu bội hề nhận lan/ Thát bài thanh hề bình hiểu chướng/ Điều hộ lục hề trẩm tình than...
       Dịch thơ: Núi Na đá mọc chênh vênh/ Cây um tùm nước long lanh, khói mờ/ Đi về hôm sớm ngẩn ngơ/ Mình dư áo lá, cổ thừa chuỗi hoa/ Non xanh bao bọc quanh nhà/ Ruộng đem sắc biếc xa xa diễu ngoài/ Ngựa xe võng lọng thây ai.
       Nước non riêng chiếm, bụi đời khôn vương/ áo dài đời Tống gò hoang/ Kiếm cung triều Tống dưới làn cỏ xanh/ Sự đời bao xiết mong manh/ Phong lưu Vương, Tạ... 
       Rồi: Sao bằng ta được thảnh thơi/ Giấc mai bừng tỉnh mặt trời lưng không. 
                                        (Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch thơ
       Ngoài bài Na Sơn ca, Nguyễn Dữ còn có hai bài thơ rất hay, đó là Bài ca thích ngủBài ca thích cờ. Cả hai bài này đều lấy nội dung của Đạo Tu Tiên ở núi Nưa để sáng tác. 
       Theo Bùi Xuân Trang, dịch giả sách Tân biên Truyền kỳ mạn lục (Bộ Quốc gia giáo dục Sài Gòn xuất bản năm 1962) thì Nguyễn Dữ đã có thời về ẩn dật tại Na Sơn (núi Nưa). Chính vì vậy, mà trong Bài ca thích ngủBài ca thích cờ, các di tích ở núi Nưa như Đá Thạch Bàn, Am Tiên, Giếng Tiên, Bàn Cờ tiên đều được tác giả nhắc đến một cách thật rõ nét. 
       Vào thế kỷ XVIII, Phan Huy Ôn, biệt hiệu Chỉ Am (1754-1786), quê ở Hà Tĩnh cũng từng nối chí người trước đến với núi Nưa mong rửa sạch bụi trần để tâm hồn thanh thoát. Và, tại vách đá Am Tiên, ông đã cho khắc bài thơ chữ Hán của mình để lưu lại hậu thế: 
       Phiên âm: Nông Cống chi tây vạn lĩnh hoàn(6)/ Sa nga Na Lĩnh bức Vân gian.
       Thiên lưu dật thú nham khê cổ/ Địa quýnh tri trần thảo thụ nhàn/ Động kính dĩ tuỳ tiều tẩu diễu/ Sơn dung bất vị Hán Thương hàn...
       Dịch thơ: Nông Cống non đoài núi non quanh/ Na Sơn chót vót tận mây xanh.
       Trời cho thú ẩn khe đồi cổ/ Đất sạch bụi trần, cây cỏ xanh/ Đường đến động xưa, tiều chẳng thấy/ Dung quang núi cũ, Hán Thương kinh...

                                  (Lê Huy Trâm dịch)
       Một bản dịch thơ khác: Trập trùng dựng trời tây/ Na Sơn một dải xuyên mây chín tầng/ Thú riêng ai lách bụi trần/ Đồi cây, khe đá, dành phần riêng ai.
       Lối tiều cỏ lấp rêu phai/ Vẫn nguyên dáng núi cợt người Hán Thương...

                                 (Hoàng Văn Đoài dịch)
       Đầu thế kỷ XX, nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Thượng Hiền cũng có nhiều kỷ niệm sâu sắc với núi Nưa. Ông đã cho dựng một ngôi nhà lá đơn sơ ở núi Nưa để nghỉ ngơi và sáng tác thơ, văn. Và, núi Nưa đã trở thành niềm cảm hứng dâng trào để ông cho ra đời nhiều bài thơ, đặc sắc trong tác phẩm Nam chi tập. Với tình cảm chan chứa, nồng nàn với núi Nưa mà ông nhớ mãi cảnh “ban mai mây trắng nhởn nhơ đỉnh ngọn” và lưng sườn “bốn mặt khói sương lồng”. Với trí tưởng tượng về câu chuyện cổ tích của vị ẩn sĩ thời Hồ - Nguyễn Thượng Hiền đã thả hồn vào thơ một cách đắm say, hoài vọng đến tận cùng: 
              Đông Nam cánh hạc từ tây lại
              Nhịp sáo sao nghe đã thẳng bong...

       Cũng như Nguyễn Thượng Hiền, nhiều chí sĩ khác ở đầu thế kỷ XX cũng mượn núi Nưa để bộc bạch nỗi niềm trước cảnh nước mất, nhà tan. Tuy nhiên những áng thơ, văn sáng tác ở thời kỳ này chủ yếu thuộc thể loại truyền ngôn nên không còn thấy nữa, tiếc lắm thay!
              Còn đó những nẻo đường du lịch
              - Núi Nưa

       Từ thành phố Thanh Hóa du khách có thể đến với thắng cảnh Ngàn Nưa bằng nhiều đường khác nhau như: Từ ngã tư Quán Giắt rẽ tay trái, đi về ngã ba Nưa (Tân Ninh, Triệu Sơn), hoặc từ Cầu Quan (Nông Cống) sang, hoặc đường Quốc lộ 47 đến ngã ba Cầu Trầu, xã Đông Tân, huyện Đông Sơn, rẽ trái đi theo đường 517 khoảng 13km. Đây cũng chính là đường gần nhất để du khách đến với thắng cảnh nổi tiếng này, tính từ thành phố Thanh Hóa. 
       Kẻ Nưa - một vùng đất lịch sử và huyền thoại - nơi có núi Nưa một danh thắng nổi tiếng khắp miền gần xa. Đây chính là ngọn núi lớn và cao nhất trong toàn bộ miền đồng bằng xứ Thanh bao la. Theo bản đồ địa chính thì núi Nưa cao 538m so với mực nước biển, chỉ cách thành phố Thanh Hóa theo đường chim bay hơn 10km. Vì vậy, ở rất nhiều vị trí, chỗ nào trên con đường hành trình tới đây, chúng ta đều thấy ngọn núi Nưa hiện lên sừng sững như một bức trường thành đồ sộ. Có lẽ vì thế núi hùng dũng và đặc biệt như vậy cho nên ở thế kỷ XV, khi viết về vùng đất “phên dậu” của đất nước, Nguyễn Trãi chỉ nhắc đến hai trái núi, đó là núi Na (tức núi Nưa) và núi Tùng (ở Hậu Lộc). Cả hai ngọn núi này đều liên quan đến cuộc khởi nghĩa Bà Triệu năm 248. 
       Đến với thắng cảnh núi Nưa, chúng ta sẽ được đi qua làng Cổ Định (Kẻ Nưa) cổ kính - quê hương của truyền thuyết về người khổng lồ gánh núi, xẻ đồi và vô số những câu chuyện thần tiên kỳ thú khác - đây cũng là vùng đất sản sinh ra nhiều danh họa lừng danh tên tuổi như Doãn Tử Tư (thời Lý Thái tổ), Doãn Đình Khải (thời Lý Nhân tông), Doãn Bằng Hài (thời Trần Minh tông) đã kế tiếp nhau đi sứ phương Bắc, thiết lập bang giao, làm rạng danh quốc thể; rồi Lê Thân (Luật Quốc công) - người có công soạn Bộ Hình luật ở thời Trần Anh tông và Doãn Nỗ - vị khai quốc công thần triều Lê có nhiều công lao trong khởi nghĩa Lam Sơn ở thế kỷ XV... ở đây cũng có nhiều ngôi chùa, đền miếu cổ kính còn gìn giữ đến ngày nay.
       Du khách sau khi đi qua hàng cây cổ thụ hơn trăm năm tuổi, chúng ta gặp đền Đức Thánh Lưỡng - nơi thờ Chàng út Đại Vương và ngôi đền Nưa nổi tiếng thờ Bà Triệu là bắt đầu cuộc hành trình để leo lên đỉnh ngàn Nưa. 
       Trước đây, khách bộ hành thường phải theo lối mòn từ chân núi - chỗ gần đền Nưa để leo lên một cách vòng vèo, quanh co như hình rắn lượn. Đây chính là con đường cổ tích của Tu Nưa huyền thoại mà ngày xưa du khách đã từng kỳ công leo lên để thưởng ngoạn “cảnh tiên” cho thoả lòng khao khát. Theo đường mòn này, du khách mới có thể cảm nhận đầy đủ sự “chập chồng”, quanh co, sâu thẳm và kỳ vĩ của Ngàn Nưa. Gần đây, một con đường mới mở để các phương tiện ô tô, xe máy đưa du khách lên, xuống núi được dễ dàng hơn. 
       Dù đi theo lối mòn xưa, hay theo con đường mới mở, du khách chỉ mất trên, dưới một giờ là có thể đến được đỉnh cao nhất của Ngàn Nưa. ở độ cao 538m, chúng ta mới thực sự thấy rõ “Núi Na đá mọc chênh vênh, cây um tùm nước long lanh khói mờ”, hay “Trập trùng núi dựng trời Tây, Na Sơn một dải xuyên mây chín tầng”... và từ đây nhìn về bốn phía, cảnh sắc của các vùng quê xứ Thanh bao la hiện ra như những bức tranh thuỷ mặc với đủ mọi sắc màu thật lung linh, huyền ảo. Vào những buổi sáng đẹp trời ánh nắng chiếu dọi, nhìn xuống phía chân núi phía đông, du khách sẽ thấy dòng Lãn Giang nước chảy lững lờ đang dướn mình nhập về sông Yên để chảy vào lòng biển cả. Xa hơn chút nữa là dãy núi Hoàng Nghiêu - một căn cứ chống Minh của tướng quân Nguyễn Chích hồi thế kỷ XV. ở về phía tây và tây bắc, là một hệ thống núi đồi trùng điệp đại ngàn ở các huyện Thường Xuân, Lang Chánh. Dưới chân núi cảnh làng xóm trù mật, ruộng đồng bát ngát của vùng Triệu Sơn - Nông Cống - Đông Sơn hiện ra như một bức thảm xanh khổng lồ giàu sức sống, tất cả đã tạo nên sức quyến rũ đến nao lòng mọi du khách hành hương...
       - Động Am Tiên
       Động Am Tiên của vị ẩn sĩ thời Trần - Hồ mà sách xưa ghi chép nằm ở đỉnh cao nhất của núi Nưa. Vì vậy mà dân gian còn gọi đỉnh núi Nưa là đỉnh Am Tiên. Đây chính là địa điểm mà vào cuối thời Trần (thế kỷ XIV), Đạo Tu Tiên (tức Đạo Giáo) đã du nhập đến và từ đó lan rộng khắp vùng quanh núi Nưa. 
       Đỉnh núi Nưa - nơi có động Am Tiên là một khu đất rất rộng và khá bằng phẳng. Tuy ở độ cao hơn nửa kilômét, nhưng ở đây vẫn có mạch nước ngầm chảy ra trong vắt và không bao giờ cạn, đã tạo thành một cái giếng tự nhiên rất đặc biệt mà dân gian đặt tên là Giếng Tiên, tương truyền là giếng để dành riêng cho Bà Triệu tắm. Phía dưới vài trăm mét có một hố nước rộng mà dân gian gọi là Ao Hóp - tương truyền là nơi cung cấp nước sinh hoạt cho nghĩa quân Bà Triệu. Trên đỉnh núi Nưa, ngoài động Am Tiên, Giếng Tiên, còn có Bàn Cờ Tiên, vườn Thuốc Tiên và vườn Đào Tiên mà sử sách và truyền thuyết đã nhắc đến như một trung tâm của sự tu tiên đắc đạo. 
       Ở vào nơi có cảnh trí hết sức quyến rũ và mơ mộng, nên đỉnh cao nhất của dãy núi Nưa này không những là điểm tu tiên của vị đạo sĩ thời Trần - Hồ, mà sau này các thời tiếp theo, ở đây còn có ngôi chùa cổ gọi là chùa Am Tiên cùng những đền miếu khác như Đền Chúa Thượng Ngàn (tức Bà Triệu hóa thân theo cách nghĩ của dân gian), Miếu Tu Nưa (thờ vị đạo sĩ thời Trần - Hồ). Ngoài ra, ở đây còn có cả một khu vực thờ lộ thiên để thờ cúng thần núi Tản Viên Sơn Thánh. 
       Theo dấu tích của nền móng cũ, trong gần 20 năm qua, nhân dân địa phương đã tự nguyện đóng góp tiền của, công sức để dựng lại chùa Am Tiên, đền Bà Chúa, đền Tu Nưa với kiến trúc khiêm tốn, đơn sơ để thờ phụng. Tuy nhiên với sự phục hồi, tôn tạo bước đầu ấy đã có tác dụng làm cho khu vực Am Tiên có sức hút khách hành hương đến đông đúc lễ bái. Mặc dù đường lên đỉnh Am Tiên (cả đường mòn cổ và đường mới mở) phải vòng vèo, vượt dốc tới hơn 3km, nhưng trong kỳ hội chính vào tháng hai và tháng tám âm lịch hàng năm, hàng ngàn, hàng vạn người từ các nơi trong, ngoài tỉnh vẫn lũ lượt kéo về trẩy hội để cầu phúc - lộc - thọ - khang - ninh cho thỏa lòng ao ước. 
       Hiện nay, ở khu vực Am Tiên, nhân dân còn thu gom được rất nhiều hiện vật bằng đá, gạch thời Lê và thời Nguyễn như khánh đá, chân tảng đá, gạch vồ cổ cỡ lớn, v.v... Đó chính là những di vật gốc có giá trị minh chứng một cách xác thực về sự tồn tại khá lâu đời của các loại hình kiến trúc, tín ngưỡng, tôn giáo Phật - Đạo - Mẫu trên đỉnh núi Nưa này. Cũng chính ở khu vực Am Tiên trên đỉnh núi Nưa, người xưa và nay thường coi đó là vùng huyệt đạo rất thiêng của Văn hóa Tùng thư (Đại Nam nhất thống chí, tập Thượng, Á Nam Trần Tuấn Khải dịch, Nhà Văn hóa - Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, 1960, tr. 71-74).
                                                                             P.T


(1) Nguyễn Trãi, Dư địa chí, Nxb Sử học, Hà Nội, tr. 39. 
(2)  Thanh Hóa tỉnh chí (bản dịch), bản đánh máy lưu trữ ở Thư viện tỉnh Thanh Hóa, tr. 3-4.
(3) Văn hóa Tùng thư, Đại Nam nhất thống chí, S.đ.d, tr. 71-72.
(4) Nguyễn Dữ, Truyền kỳ mạn lục (bản dịch), Nxb Văn nghệ, Hà Nội, 1988, tr. 132.  
(5) Văn hóa Tùng thư, Đại Nam nhất thống chí, S.đ.d, tr. 71-72.
(6) Bài thơ này còn thiếu 2 câu, chúng tôi chưa sưu tầm được.


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 58
 Hôm nay: 4785
 Tổng số truy cập: 13991381
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa