Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Văn hóa   /   Đền Đồng Cổ từ phủ Thanh Hóa đến kinh đô Thăng Long - Mạnh Hà
Đền Đồng Cổ từ phủ Thanh Hóa đến kinh đô Thăng Long - Mạnh Hà

Thăng Long - Đông Đô Hà Nội không chỉ là nơi lắng hồn núi sông ngàn năm mà còn là nơi hội tụ khí thiêng đất Việt. Trong hệ thống thần điện của kinh thành Thăng Long xưa có sự góp mặt của thần linh bốn phương. Trong số những vị thần linh ấy, thần Đồng Cổ là một trong những vị thần linh có vị trí quan trọng ở kinh thành Thăng Long.
Từ đền Đồng Cổ phủ Thanh Hóa
Trong tâm thức người Việt: Trống đồng - di vật tiêu biểu cho tài năng, trí sáng tạo của tổ tiên ta thời kỳ dựng nước đầu tiên là vật thiêng. Việc tôn thờ thần Đồng Cổ xuất hiện khá sớm ở nhiều nơi.
Chỉ tính ở khu vực đồng bằng hạ lưu sông Mã - một trung tâm của văn hóa Đông Sơn đã có tới hai nơi có đền Đồng Cổ.
Đất Thanh Hóa thời Lý là “Trại” Châu ái rồi “Phủ” Thanh Hóa (1111). Sau khi Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long, vùng đất này là “phên dậu” phía Nam - Triều Lý rất coi trọng vị thế của vùng đất này nên đã cử danh tướng Lý Thường Kiệt - người gốc Thăng Long làm trấn thủ từ năm 1082 đến năm 1101.
Thời Lý, Trại ái Châu là nơi Phật giáo phát triển đã hình thành nhiều trung tâm Phật giáo với các ngôi chùa nổi tiếng như: Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Hậu Lộc), chùa Báo Ân (Đông Sơn), chùa Linh Xứng, chùa Long Cảm (Hà Trung), chùa Hương Nghiêm (Thiệu Hóa). Bên cạnh Phật giáo, vùng đất này còn có nhiều tín ngưỡng dân gian khác nhau: Thờ thần đá, thờ thần núi, thần sông, thần săn bắn, thần Đồng Cổ. Trong các loại tín ngưỡng dân gian này, việc tôn thờ thần Đồng Cổ có ảnh hưởng lớn. Vùng đất đôi bờ hạ lưu sông Mã, nơi có nhiều trống đồng và sự linh nghiệm của vật thiêng này trong các lễ hội dân gian đã tạo điều kiện cho việc thờ thần Đồng Cổ tồn tại và duy trì.
Thanh Hóa có hai nơi tôn thờ thần Đồng Cổ. Một đền thờ thần Đồng Cổ ở hạ lưu sông Mã thuộc xã Hoằng Minh, huyện Hoằng Hóa và một đền thờ thần Đồng Cổ ở Đa Nê (Yên Định). Ngoài hai nơi có đền thờ ra, trống đồng có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân. Trong lễ hội của dân tộc Mường ở Thanh Hóa, “mo trống đồng” là hình thức sinh hoạt văn hóa quan trọng trong lễ hội truyền thống của người Mường.
Đền thờ thần Đồng Cổ ở Hoằng Hóa có quy mô nhỏ, theo lời truyền văn được rước từ Đa Nê (Yên Định) về.
Đền thờ Đồng Cổ ở làng Đa Nê, xã Yên Thọ, huyện Yên Định được tạo dựng ở một vị trí linh địa. Sông núi và huyền thoại đã làm cho thần điện thêm phần kỳ vĩ. Nét đặc biệt là đền thờ tọa lạc ngay trên một di tích văn hóa Đông Sơn. Tại đây đã phát hiện được nhiều trống đồng lớn. Có thể sự tồn tại của làng cổ Đông Sơn, trống Đông Sơn tại chốn thắng địa này là cơ sở cho việc ra đời huyền thoại về đền Đồng Cổ sơn thần. Sách Đại Nam Nhất thống chí cho biết: Tỉnh Thanh Hóa có đền Đồng Cổ sơn thần ở núi Đồng Cổ(1).
Đền Đồng Cổ được dựng ở bờ Nam sông Mã, dưới chân núi Khả Lao (sau gọi là núi Đồng Cổ), trong một thung lũng rộng, ba bên có núi cao. Ba ngọn núi này có chung một tên gọi là Tam Thái Sơn.
Truyền thuyết dân gian cho biết, đền thờ Đồng Cổ ở vị trí đắc địa, hiển linh. Tài liệu thư tịch cổ đã ghi: Đời Cảnh Hưng thường có tàn vàng xuất hiện ở quán triều Thiên ba ngày mới tan, quan địa phương đã đến nơi tế lễ; có khi trong đền có mây mù bao bọc, gió lớn mưa to, rồng vàng xuất hiện. Ca dao ở vùng này đã ghi nhận: Đa Nê có núi Tam Thai/ Có hồ bán nguyệt, có hai rồng vàng.
Tương truyền: Đền Đồng Cổ sơn thần được xây dựng từ xa xưa, không rõ từ thời nào nhưng đến thời Lý đã có quy mô khá lớn. Đền quay về hướng Nam, dựa lưng vào núi, sau núi là sông Mã. Núi có động nhỏ thông ra sông Mã. Phía trước hồ bán nguyệt và một khu đất rộng, bằng phẳng tiện cho việc hành lễ.
Xưa lễ hội Đồng Cổ được tổ chức vào mùa xuân với nghi lễ trang trọng, thu hút khách thập phương. Trong đền đặt một chiếc trống đồng. Sách Đại Nam Nhất thống chí do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn có ghi rằng: “trong đền có một cái trống đồng được chế tạo từ thời Hùng Vương”(2), và có một tấm biển gỗ khắc chữ Hán cho biết: Con trai Hoàng đế Quang Trung là Nguyễn Quang Bàn, nhân bắt được một chiếc trống đồng rộng 1 thước 9 tấc, cao 1 thước 4 tấc đã đem cúng vào đền để giúp cho việc nhạc lễ khi cúng tế(3).
Đền Đồng Cổ được trùng tu nhiều lần, dấu tích vật liệu kiến trúc (gạch, ngói) còn lại cho thấy đền được trùng tu vào thời kỳ Lê, Nguyễn. Tấm ảnh tư liệu đền Đồng Cổ thời Nguyễn cho thấy ngôi đền có quy mô tương đối lớn, bề thế.
Trong tâm thức người dân ở đây, thần Đồng cổ là vị thần “Hộ dân bảo quốc”. Việc tế lễ được tiến hành kính cẩn, trang nghiêm. Lễ hội đền Đồng Cổ là một trong những lễ hội lớn trong khu vực.
Do ở vị trí thuận lợi trên con đường thượng đạo từ Thăng Long đến vùng biên viễn phía Nam, hơn nữa khu vực đền nằm trong khu vực thung lũng kín chỉ có một lối ra, cận kề sông Mã nên các vị Hoàng đế của các vương triều Lý - Trần - Lê thường chọn nơi đây làm nơi hạ trại trong các cuộc tuần du chinh phạt phương Nam.
Các vua thời Lý - Trần - Lê đã có dịp đóng quân ở khu vực này và được thần Đồng Cổ phù hộ trong các trận mạc. Sách Đại Nam Nhất thống chí cho biết: “Vua Lý Thái Tổ đi chinh phạt phương nam, được thần Đồng Cổ xin theo đánh giặc lập công. Đầu đời Lê Trung Hưng, quân Mạc vào xâm chiếm các huyện Vĩnh Ninh (Vĩnh Lộc) và Yên Định, nhà Lê đóng bản doanh ở thượng lưu sông Mã, đêm nghe thấy ba tiếng trống nổi lên từ trong núi Khả Lao (Đồng Cổ), sáng ra quan quân đánh đuổi quân Mạc, gặp được gió mạnh, nước cường, thuận buồm xuôi gió, khí thế hăng hái gấp bội nên quân giặc phải thua. Đời Lê Hoàng Định đã có sắc phong cho đền. Trong sắc phong có câu “Giang thượng phong trào, đại trợ tam quân chi thắng” nghĩa là: “Gió nước trên sông giúp sức lớn để tam quân đại thắng”(4).
Đền Đồng Cổ hiện nay dựng trên dấu tích xưa. Đã được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
Đến miếu Đồng Cổ và lễ minh thệ ở thành Thăng Long thời Lý
Do thần Đồng Cổ có công giúp vua Lý Thái Tổ đánh giặc phương Nam và báo mộng giúp vua Lý dẹp loạn Tam Vương nên vua nhà Lý đã cho rước thần Đồng Cổ từ phủ Thanh Hóa về kinh thành Thăng Long.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: Vua Thái Tông năm 1028 phong tước vương cho thần núi Đồng Cổ, dựng miếu để cúng tế và làm lễ thề, xuống chiếu “giao cho Hữu ty dựng miếu ở hữu thành Đại La, sau chùa Thanh Thọ” (nay là làng Bưởi; phường Yên Thái cũ, trên bờ phía trái sông Tô Lịch, giáp với Thành đất Đại La), triều đình lấy ngày 25 tháng 3 làm ngày tổ chức lễ minh thệ. Sau vì tháng 3 có ngày quốc kỵ nên chuyển sang ngày 4 tháng 4(5).
Vào ngày tổ chức lễ minh thệ, ở trong miếu Đồng Cổ cắm cờ xí, quân lính đội ngũ chỉnh tề, gươm giáo treo trước thần vị đọc lời thề rằng: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết”(6). Các quan lại từ cửa Đông vào uống máu ăn thề. Lễ minh thệ từ ấy làm lệ thường. Thần Đồng Cổ từ đời vua Lý Thái Tông trở thành “quốc thần”; lễ minh thệ là một trong những quốc lễ của vương triều.
Theo truyền thống, nhà Trần cũng tổ chức lễ minh thệ như việc cũ của nhà Lý. Nhà sử học Phan Huy Chú trong Lịch triều Hiến chương loại chí cho biết: Hàng năm lấy ngày 4 tháng 4, quan tể tướng và các quan từ lúc gà gáy đã đến ngoài cửa thành, tờ mờ sáng vào chầu; vua ngự ra cửa Hữu lang của điện Đại Minh, các quan mặc quân phục lạy 2 lạy, lui ra rồi sắp đội ngũ nghi trượng và quân hầu đi ra cửa Tây đến đền Đồng Cổ cùng nhau uống máu ăn thề. Quan quân thủ kiểm chỉnh đọc lời thề rằng: “Làm tôi hết lòng trung thành, làm quan thanh bạch, không giữ lời thề, thần minh chu diệt”. Đọc xong lời thề, quan tể tướng đóng cửa, kiểm điểm các quan, ai vắng mặt phạt 5 quan tiền”(7). Việc tổ chức minh thệ ở kinh thành Thăng Long thời Trần là việc trọng đại, dân chúng đi xem chật đường.
Đời hậu Lê, lễ minh thệ cũng được tiến hành với nghi thức khác hơn vào sau tết Nguyên Tiêu (Rằm tháng Giêng).
Phan Huy Chú trong Lịch triều Hiến chương loại chí cho biết: Mùa xuân, sau rằm tháng giêng, vua ngự ra trường đua xem bọn đại thần Lê Sát và các quan văn võ trong ngoài tế cáo trời đất, thần núi cao, sông lớn, giết ngựa trắng, uống máu ăn thề(8).
Đến thời kỳ cuối của Vương Triều, hội minh thệ ở kinh thành Thăng Long vẫn được duy trì ở mức độ thấp hơn và có sự thay đổi.
Thần Đồng Cổ là vị thần ở đất “Trại” phương Nam, “Phủ Thanh Hóa là vị thần đầu tiên được đích thân vua Lý Thái Tông rước về kinh thành Thăng Long, việc này đã đặt ra nhiều vấn đề có liên quan đến hệ thống thần điện đất kinh kỳ Thăng Long. Đằng sau bức màn hư ảo của huyền thoại Thần Đồng Cổ giúp vua Lý đánh giặc, dẹp loạn cung đình, thống nhất vương triều cho thấy việc định đô ở chốn trung tâm của đất nước, mưu việc lớn là việc thuận lòng dân và thuận “lòng thần”. Rồng thiêng bay lên, thần linh phương xa về “phù trợ” là điềm lành cho đất Thăng Long.
Việc thần Đồng Cổ tham gia hệ thống thần điện Thăng Long và trở thành “quốc thần” có vai trò quan trọng đối với các vương triều cho thấy phần nào sức cuốn hút, quá trình hội nhập và sự thống nhất văn hóa của vùng đất thăng Long từ buổi đầu định đô nghìn năm trước.
                              

 M.H

(1),(2),(3),(4) Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại Nam Nhất thống chí. Tập 2. NXB Thuận Hóa 1992.
(5),(6) Đại Việt Sử ký toàn thư. Nxb KHXH Hà Nội 1998, tr 251.
(7),(8). Phan Huy Chú. Lịch triều Hiến chương loại chí tập II. Nxb KHXH Hà Nội 1992 tr 146-147. 


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 63
 Hôm nay: 1596
 Tổng số truy cập: 9309402
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa